Trang chủ Văn học Sự chuyển động kỳ diệu của Nguyện lực, phần 1

Sự chuyển động kỳ diệu của Nguyện lực, phần 1

88

“Nhìn thấy tướng Phật đẹp
Xin nguyện cho mọi người
đều được thân như Phật
chứng được tướng chân thật..”

Bài kệ tán Phật nầy, tôi vẫn thường thầm đọc mỗi khi tụng Kinh tại nhà, hoặc đến Chùa hay bất cứ nơi nào, nhìn thấy được tượng Phật hoặc khi đối diện với những sự việc khó khăn trong đời sống, nghĩ đến Phật, để cảm nhận được tánh Phật có trong người và cũng có trong chính tâm tôi. Chiêm nghiệm lại bản thân, qua bài Kệ vừa nêu, như chứa đựng những tâm tình sâu xa, chia sẻ của hạnh nguyện “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn” mà người Phật tử được may mắn học hỏi, chỉ dạy và thực hành trong đời sống hàng ngày, sống với hạnh lành.

Trong tất cả kinh sách của đạo Phật là kho tàng vô giá cho nhân loại, chứa đầy đủ những phương thần dược điều trị tâm, mà nếu ai hữu duyên tiếp cận, đem áp dụng hàng ngày, sẽ chuyển hoá được khổ đau, bất hạnh của cuộc đời, của dòng nghiệp lực và đưa đến bờ an vui, hạnh phúc. Cái hạnh phúc mong manh trong cuộc đời vô thường, mà một người có tu tập đạt được (biệt nghiệp) sẽ nhân lên, lan toả ra, khi liên hệ đến người khác, chung quanh, đến xã hội, hoặc rộng hơn, của một quốc gia và con người nói chung, ở mọi nơi (cộng nghiệp) theo tinh thần của Hoa Nghiêm “tương duyên tương sinh”.

Người Phật tử còn được hướng dẫn, huân tập những điều tốt, hạnh lành đó.. để đi vào cuộc đời với những nét tâm tình chân chất, mộc mạc, trực tâm, nhưng đầy sức sống tâm linh, nội tại… huống hồ là các vị tu sĩ, những con người mang chiếc áo cô đơn, dấn thân vào cuộc đời, đem chí nguyện làm đẹp cuộc đời, đem hạnh phúc tâm linh đến từ nguồn sống nội tâm, chia sẻ những lợi ích an lạc cho con người. Chúng ta có thể nhận thấy những tâm tình biểu lộ, thanh thoát, thong dong hiển hiện trên gương mặt, trong phong thái và cách hành xử của người xuất gia, vì nơi những con người đó, sức chuyển động của nguyện lực cho mình và cho người đang tiến dần đến sự thuần thục…

Từ khi chuyển qua sinh sống tại Houston, Texas, tôi cảm nhận được những sức sống mãnh liệt của cư dân tại thành phố nầy, vươn mình lên trong mọi sinh hoạt, mọi môi trường, mọi hoạt động để đóng góp cho những gì tốt đẹp của thành phố, nơi cư ngụ, sinh sống. Và thời tiết cũng lại là điều đặc biệt ở đây, mưa nắng bất thường, có lúc lạnh tê tái, cóng da, buốt thịt, nhưng có khi lại bừng bừng cơn nóng của trời đất, thở hơi ra. Cơn mưa nắng cũng thường xuyên tranh giành chỗ đứng, vì vừa mới thấy nắng trời gay gắt, nóng bức, buộc người mặc áo thưa mỏng, chỉ khoảng lát sau, cơn mưa bất chợt đổ về, trêu chọc. Nhưng điểm đặc biệt của người dân ở Houston là sức chịu đựng và giàu tấm lòng từ thiện, bao dung, chia sẻ…

Từ những biến đổi bất thường của thời tiết, của cuộc sống để thích nghi…trong đó, sự biến đổi đời sống tâm linh quả thực là điều kỳ diệu..

Tôi muốn nói đến ngôi Chùa Phật giáo Việt Nam với sự chuyển động lớn của nguyện lực, mà người đứng ra thành lập, cùng những người liên hệ, đều giàu lòng từ bi, đầy đủ trí tuệ và dũng lực, cưu mang, tạo dựng và hình thành…

Trong Thiền sử, khi Ngài Lục Tổ Huệ Năng được vị Quan sở tại địa phương, muốn dâng cúng đất, thành lập ngôi Chùa để truyền bá Thiền tông. Ngài chỉ xin vỏn vẹn mảnh đất được phủ che trong cái Y của Ngài được trải ra, nhưng khi chiếc Y bung mở ra, đã che một khoảng đất rộng lớn, và nơi đó đã thành hình ngôi Chùa Hoa Nam, và khởi đầu của dòng Thiền Tào Khê.1

Chiếc Y vàng của Quý Thầy như Thầy Nguyên Hạnh, Thầy Nguyên Đạt, Thầy Minh Tân cùng một số Quý Thầy với nguyện lớn và những tâm nguyện của một số Phật tử khởi đầu, có ai dám nghĩ rằng trên mảnh đất đầm lầy, cỏ mọc hoang dại, đã từ từ thành hình nên ngôi Già Lam như hiện nay. Đó là ngôi Chùa Phật Giáo Việt Nam..

một sớm mai,
đất trời tưng bừng mở hội
chiếc lá vàng rơi khẽ xuống
từng mảnh phước điền y
che phủ đất vọng tâm
phiền não đã bao lần xin cúi mặt
tham sân si từng lúc vội mất dần
cỏ biến mình cho hoa nở
đất sình lầy làm nền móng kim cương
có phải thiện tâm
người gieo hạt
vạn đoá sen từ đất,
vươn lên, mủm mỉm cười
cho thuyền từ rời bến ra khơi
đưa từng lớp người
qua khỏi bến sông mê ….

Công đó đâu phải nhỏ, đâu chỉ là một thời gian ngắn, một tháng hay một năm mới thành hình, tạo dựng được, nhưng là kéo dài qua nhiều năm tháng. Hạnh đó đâu phải tầm thuờng, mà phải đến từ nguyện lực rộng lớn, vì ích lợi cho nhiều người…..Ngôi Chùa đã vươn mình lên, tồn tại cũng đã 20 năm trôi qua bởi biết bao nhiêu công sức, hạnh nguyện, và đối diện với nhiều cuồng phong của “tám ngọn gió” thổi đến…

Chùa Phật Giáo Việt Nam đã hiện diện như một thực thể tâm linh vững mạnh, ngày càng lớn rộng, sánh cùng với những dòng tâm linh, ngôi Hoàng vũ khác, đưa bờ vai nội lực nâng đở, đem ngọn đèn giáo Pháp trao truyền, mở rộng, để chở che cho những con người cần cầu tìm đến khi đối diện với sự bất an trong đời, hay những người mang tấm lòng tu học, chuyển hoá nội tâm và cũng là nơi duy trì, gìn giữ văn hoá dân tộc nơi xứ người.

Ý thức cuộc đời là vô thường, cùng những bất hạnh, khổ đau lẫn lộn với hạnh phúc phù du, đã có biết bao người mang ảo ảnh vào đời. Trong thế giới nhị nguyên, nếu không quán chiếu lại, con người sẽ sống trong bất an trước các biến đổi của thân tâm, của trời đất tác động đến thường trực… sẽ đem cho con người nhiều khổ đau, do thiếu nội lực đến từ sự tu tập… vì khổ đó, rồi vui đó, thành công đó, thất bại đi kèm, danh lợi đó, mất mát đó v.v…

Đạo Phật dạy cho con người nhận thức được cuộc đời là Khổ (dukkha), nhìn rõ “ba cõi không an giống như nhà lửa” để nhận chân đó là sự thật, không phải để bi quan, yếm thế, trốn tránh cuộc đời, nhưng để tiếp cận, đối diện và chuyển hoá, đó là trách nhiệm nhân bản kỳ diệu trong thân phận, sứ mạng cho bản thân của con người, một hữu tình trong dòng sanh diệt của vũ trụ.

Tượng Bồ tát Quán thế Âm (Boddhisattva Avalokiteshvara) cũng đã được tạo dựng vươn cao lên bầu trời, sừng sững như một tấm lòng rộng lớn cưu mang, chia sẻ, cứu độ, và cũng nói lên sức nguyện đem đạo vào đời của các vị Thầy tại Chùa. Đạo Phật không phải đóng khung trong nội viện, nhưng đến với cuộc đời, đi vào cuộc đời, và chuyển hoá cuộc đời, bằng tấm lòng từ bi và trí tuệ vươn dài ra thế giới.

Kìa bóng ngày đêm của đất trời
Đem theo khoảng gió có mây hương
Có muôn tâm niệm cùng bao cõi
lặng tiếng chuông về, bỏ vọng mê

người đi từ thuở bỏ quê nhà
tiếng mõ gần xa gọi trở về
đường đi vạn lối, đời rong ruổi
đức Phật trong lòng, có nhớ chăng?….

Trên mảnh đất Già lam nầy, Từ bi, Trí tuệ đã được gieo hạt, kết trái, nở hoa và phải được nhân lên, truyền rộng cùng khắp như sức sống của dòng mạch tâm linh không ngừng nghỉ vì sự khổ đau của con người, vì đạo Phật là con đường sống chân thật, đến từ vị Đại Tỉnh Thức- Đức Phật Thích Ca, một con người siêu việt trên tất cả mọi người, vị Giáo chủ của cõi Ta bà, vị Thầy của Trời nguời, nên đạo Phật hẵn nhiên là đến từ con người, vì con người với mục đích cao cả là đưa đến bờ Giác, đạt tới Chân Thiện Mỹ như Thông Điệp Cao thượng, Vô giá, Bình đẳng và Nhân bản của Ngài từng vang vọng khắp mười phương “ ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành”…

Phải chăng khi người con Phật đón nhận Thông điệp từ tấm lòng của Đức Từ Phụ, nên tự trong lòng luôn luôn nuôi lớn được chí nguyện độ sanh khi đã ung dung, sống hài hoà với tâm lượng thanh tịnh, An lạc của mình, muốn chia sẻ cùng khắp mọi người… Lời Nguyện của Ngài A Nan trong Kinh Lăng Nghiêm của thời Công phu khuya đã miên trường vang lớn, như tiếng của muôn vàn tinh tú lóng lánh trong bầu trời đêm, đánh động tâm thức người tu sĩ trong suốt dòng lịch sử truyền bá của đạo Phật …

“Nguyện xin Đức Thế Tôn minh chứng. Con xin nguyện đi vào đời năm trược, nhiếu biến loạn nầy để cứu sinh linh, đem đến bờ an vui. Nếu như còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, con nguyện không vào Niết bàn..”
(Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh, ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hoàn..)2

hoặc như lời Nguyện của Bồ tát Điạ Tạng:
    
“Khi nào địa ngục vẫn còn chúng sanh đau khổ đi vào, tôi thề không thành Phật”     ( Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật )3

Vâng, nếu người quán chiếu và hiểu sâu lời nguyện đó, sẽ bàng hoàng xúc động, vì nguyện đó cao vời vợi, rộng hơn biển của đại dương … mà Quý Thầy, Quý Sư Cô đều đã và đang mang tâm nguyện Bồ tát đó đi vào đời, vì lợi ích con người và vì đó là Sứ mạng cao cả mà người mang chí Xuất trần, khi mới vào Chùa đã nguyện và hằng được nuôi dưỡng tâm, như trong Tỳ Ni Nhật Dụng dạy và quán nguyện vào mỗi phút giây của mỗi ngày trong Chánh niệm…

Tượng Bồ tát Quán Thế Âm được tạo dựng cũng bởi tấm lòng cao cả đó, trước khoảng sân rộng của ngôi Chùa Việt Nam, đã có mặt 10 năm qua. Trước mặt Tượng là hồ nuớc Thanh Lương, sau lưng là ngọn núi Ngũ Hành.

Phải chăng cái tâm con người là khoảng trời bao la, khoáng đạt, thanh thoát như là mảnh sân Chùa hàm ý nói đến. Tượng Bồ tát là biểu tượng đẹp cho lòng Từ Bi luôn hiện diện trong lòng người, như nước thanh tịnh trong hồ trong hoặc là ánh đèn Trí tuệ chiếu soi năm uẩn để thấy Thể tánh là Rỗng Không được tượng trưng cho năm ngọn núi Ngũ Hành, nằm ở sau lưng.

Biết bao nhiêu người đã tìm đến Ngài, trước Bảo Tuợng để cầu nguyện, quán chiếu… khi bị va chạm những bất hạnh, khổ đau của cuộc đời, như người lữ hành đói khát đi trong đêm tối giữa sa mạc mênh mông, mà Ngài là tấm lòng của người Mẹ thương yêu, che chở cho con, nên cần tìm đến. Rất nhiều, rất là nhiều người đã tìm sự an lạc, chuyển hoá do sức Từ Lực, linh nghiệm đến từ Bảo Tượng Bồ tát Quán Thế Âm.

Vâng, chỉ có Trí tuệ mới soi sáng được đêm tối dày đặc vô mình, mới nhìn thấy được nghiệp lực của chúng sanh để chỉ dẫn đến bờ an lạc và chỉ có Từ Bi, Hỷ Xả đến từ nội lực tâm linh trùm khắp, mới đem nước Thanh Lương, Tịnh Thủy rải dập tắt lửa phiền não khổ đau dày xéo tâm người….

Do đó, mà không có gì ngạc nhiên khi mà Bảo tượng của Ngài đã được thành phố Houston tri ân, kính quí để công nhận là Kỳ quan tâm linh đẹp của thành phố.

Niềm hoan hỷ, lòng vui mừng của bao nhiêu người con Phật từ khi có Bảo tượng của Bồ tát Quán Thế Âm, đã được Quý Thầy cụ thể hoá bằng việc Tổ chức Lễ Hội Quan Âm- Ngày Hành hương và Cầu nguyện, cùng là Ngày Văn hoá Dân gian.

Đại Lễ Tam bộ Nhất bái của các kỳ Lễ Hội năm trước, năm nay, được đổi lại là Nhất niệm Nhất bái, vì số lượng người tại địa phương và khắp các nơi trên thế giới về Hành hương, tham dự được thông báo là đông hơn rất là nhiều và cũng do có nhiều Chương trình phối hợp cùng thời gian, như Đại Lễ Cung nghinh & Chiêm bái Phật Ngọc Hoà Bình Thế Giới và Đại Trai Đàn Chẩn Tế.

Hấp thu nền Văn hoá tâm linh Phật giáo, cũng là nền Văn hoá tinh hoa của Dân tộc Việt trong hơn hai ngàn năm qua, là nền Văn hoá Nhân bản, Giải thoát, Bi Trí Dũng đã chung vai, sát cánh, đóng góp tích cực trong tất cả mọi mọi mặt sinh hoạt trong suốt chiều dài lịch sử của Dân tộc. Nay, được đem theo trong lòng những người Việt, những người con Phật, rời xa quê Mẹ và được gây mầm, gieo trồng và nẩy nở trên đất mới của nuớc Mỹ.

Hình ảnh những ngày nầy trở thành truyền thống thật là đẹp, có giá trị Văn hoá và Tâm linh rất lớn, đã trở thành ngày Truyền thống của một năm và mỗi năm…mà những ngày sau khi đón mừng Năm Mới Âm lịch, tất cả các người con Phật đều nôn nóng, mong đợi, hướng về….

Thật là nhiều khó khăn để duy trì được Lễ Hội truyền thống đó trong mỗi năm, nhưng vì chí nguyện độ sanh, những chướng ngại về nhiều mặt đã không làm sờn tâm nguyện, bước chân của Quý Thầy muốn đem lại lợi ích tâm linh cho mọi người, nên rất đáng kính phục và trân quí.

Những cơn mưa xúc động tắm rửa không gian cho đất tâm thanh tịnh để đón mừng ngày Lễ Hội…rồi, những cơn nắng cũng cười mỉm, chan hoà để làm ấm áp lại, nhen nhúm lên những tư tưởng hạnh phúc, xan xẻ cùng khắp…

Houston là như vậy, và Ngày Lễ Hội Quan Âm luôn là như vậy, như đoá sen An lạc, Hạnh phúc luôn vươn mình, lớn lên, tươi đẹp giữa mưa nắng bất thường. Đạo Phật là một tôn giáo luôn luôn “tùy duyên bất biến, nhưng bất biến mà tùy duyên” mang trong mình nội lực tâm linh vi diệu, có sức Nhẫn nhục, có lòng Từ Bi, có đèn Tuệ giác do sự chuyển hoá nội tâm, thanh tịnh hoá những phiền não, tâm uế v.v.. nên là cây Văn hoá tâm linh “bất động giữa các bạo động, bất tranh giữa những tranh giành, bất thoái tâm trước những nghịch cảnh” bởi vì quan niệm rằng sự giải thoát khỏi sanh tử trầm luân là quan trọng, bởi vì con người đã đau khổ, lầm than, bất hạnh quá nhiều…

Cho nên, mang tấm lòng xót xa, thương yêu, hoà đồng với con người, muôn vật và cùng con người tiến đến bờ Giác, Tỉnh thức, An lạc. Vì lẽ đó,  chúng ta nhận thấy rằng đạo Phật thích hợp với mọi hoàn cảnh, mọi môi trường, mọi màu đất, mọi không gian v.v… trừ khi con người không còn sự đau khổ, không còn bị vô minh che lấp làm trầm luân trong sáu nẻo…

Đó cũng là tâm bồ đề, cái tâm của những vị Bồ tát mang trong lòng sức nguyện lớn “Trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh”, cho nên, lại có thêm một sự kiện vô cùng hệ trọng, cao quí, đó là Cung Nghinh Tuợng Phật Ngọc Hoà Bình quang lâm để cho Trời Người được chiêm bái, tại mảnh đất Già Lam đã từng bao nhiêu năm có mặt, chia sẻ về mọi mặt cho rất là nhiều người, không phân biệt màu da, sắc tộc …

Trong thời gian vừa qua, chúng ta từng nghe đến, hay từng đọc được đâu đó những tài liệu, thấy được hình ảnh và biết đến Tượng Phật Ngọc được cung kính, xưng tán là Tượng Phật Ngọc Hoà Bình cho Thế giới. Nhưng, điều hy hũu, vi diệu và quan trọng nhất, là Tuợng Phật đã và đang có mặt tại Ngôi Chùa Phật Giáo Việt Nam trong những ngày này.

Có phải chúng ta xúc động quá không? Có phải trong lòng của mọi người đều vui mừng, hoan hỷ quá không? Có phải nước mắt chúng ta chảy xuống vì niềm hạnh phúc vô biên nầy, khi được Cung nghinh và Chiêm bái Tuợng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng ngọc quí nầy?

Khối ngọc thạch Nephrite 3000 ngàn tuổi, màu ngọc xanh sáng, tự bản chất đã là ngọc quí, hiếm, chưa nói đến giá trị bằng hiện kim. Người sở hữu khối ngọc nầy có thể cắt, xẻ ra để làm nhiều loại đồ trang sức quí khác nhau để kinh doanh, gây lợi nhuận và là chuyện bình thường. Nếu như đặt vào vị trí của tôi, có lẽ vì tham lợi, làm giàu, tôi cũng sẽ làm như vậy…

Nhưng cao cả thay! quý hoá thay! Khối ngọc lại được Ông bà Ian Green và Judy, là Phật tử thuộc Chùa Tây Tạng ở vùng Bendigo (Victoria, Úc Châu), sau khi có được và theo sự chỉ dạy của vị Thầy Lama Zopa Rinpoche, nên đã phát tâm tôn tạo thành pho tượng Phật, sau khi đưa về Thái Lan để điêu khắc, dựa theo mẫu của pho Tượng Phật đang tôn trí tại Đại Tháp ở Bồ đề Đạo Tràng.  Tượng Phật bằng ngọc thạch quí được tạc với chiều cao gần 16 feet (4m85), nặng 5 tấn và được xem là kỳ quan của thế giới hiện nay.

Sau 5 năm, với sự tận tâm điêu khắc của các nhà điêu khắc tài danh, với sự chú nguyện của chư Tăng, và với tâm lòng cao quí vì Đạo vì Đời của vợ chồng Đạo hữu người Úc, khối ngọc quí hiếm đã thành hình nên một Tôn tượng Phật Thích Ca rất là đẹp trọn vẹn, thanh thoát, chứa đầy đủ nội dung Tướng hảo trang nghiêm của đức Phật.

Thật là phước duyên lành lớn cho những ai được diễm phúc chiêm bái, đảnh lễ Tôn tượng Phật Ngọc. Được biết, Ngài Lạt Ma Zopa Rinpoche nói rằng: “Phật Ngọc  sẽ thắp sáng toàn cõi thế gian này, Phật Ngọc sẽ mang niềm an lạc, hạnh phúc không thể nghĩ bàn đến cho chúng sanh, sự ảnh hưởng của Phật Ngọc sẽ góp phần ngăn chận những cuộc chiến tranh, những hủy hoại tàn phá đang xảy ra khắp nơi trên thế giới”.

Vâng, pho Tượng Phật ngọc đã được đem qua nhiều quốc gia, nhiều địa phương, nhiều nơi chốn để gây thêm tín tâm, nương vào ánh sáng của giáo Pháp, nhìn cận Tôn Tượng với vẻ đẹp siêu thoát, để quán chiếu lại chính mình, vì mỗi người đều có tánh Phật, cũng đầy đủ tướng hảo trang nghiêm và những đức tánh làm nên, trở thành vị Phật.

Pho Tuợng Phật Ngọc do tấm lòng hy hiến, cúng dường của Ông bà Ian Green và Judy, thực hiện đúng Hạnh Nguyện của Ngài Phổ Hiền, đã trở thành một thực thể tâm linh vô giá, là một kỳ quan lịch sử hiện nay, bởi vì qua đó, thể hiện được tấm lòng của người mang tâm nguyện Bồ tát, đem bàn tay “tài thủ đắc vật” biến khối ngọc hữu giá trở thành vô giá. Tôn tượng được điêu khắc hài hoà, như chứa đựng khối lòng của Tâm kinh, của Từ Bi, của Bát Nhã khắc nên, và đó là một tấm lòng ít thấy trên cõi đời nầy.

Tôn tượng Phật Ngọc được gọi là Phật Ngọc Hoà Bình cho toàn thế giới, bởi vì mỗi nơi Tôn Tượng đến nơi, đi qua, hiện tại đã kỳ duyên lớn đối rất nhiều người vì từ trước giờ chưa biết Phật Pháp, chưa biết đạo Phật đã tìm đến, cầu nguyện, chuyển tâm, phát nguyện sống Hạnh lành. Từng người một, nhân lên, rộng ra đến khắp mọi người, nếu chuyển tâm tu học, đem lời Phật dạy, sống với bản tâm thanh tịnh, làm lành lánh ác, gieo những nhân lành…

Nếu như chúng ta đảnh lễ, chiêm bái Tôn Tượng Ngài với lòng cung kính, chí thành, đem hương Giới, hương Định, hương Tuệ, đem Trí Thanh Tịnh để tương ưng cùng cảnh giới Pháp thân của Ngài, “tương tức tương nhập” để cho “cảm ứng đạo giao”, để sống với, khai phá, khởi dậy, phát triển những đức Tánh Phật hay Chân Giác trong tâm mình, trong mỗi người con Phật thể hiện…. thì có phải Hoà bình là điều không phải chỉ là ước vọng suông hay là một hy vọng không bao giờ có. Đúng vậy, vì Tâm bình thì Thế giới Hoà Bình, như Kinh Hoa nghiêm nói dạy rằng “Nhất thiết duy tâm tạo”.

Hình ảnh đức Phật kết ấn Xúc Địa thật đẹp với bàn tay để ngữa, và bàn tay phải thả xuống…Trong Ngũ Phật Kiết ma ấn, Đức Phật A-súc-bệ dùng Xúc-địa ấn, tay phải buông thỏng xuống đụng đất như nói lên ý phải tiếp xúc thẳng vào Bản thể Thanh tịnh nầy thì chất liệu của Phật tâm hay giải thoát mới lan tràn và hòa nhập cùng hành giả thành một thể và đồng thời mở rộng tâm bồ-đề kiên cố và sống hoài với Đất Tâm nầy (Xúc địa) vì tất cả Thánh-phàm, thiện ác, phiền não-Niết bàn v.v. cũng đều từ đây ra.

Cho nên, giải thoát hay thành Phật cũng phải từ cõi đất Ta-bà ô trược nầy. Hiện diện giữa cuộc đời nầy, Ngài Bất động (chẳng động) Vô động (không động), Vô nộ (không giận), Vô sân nhuế (không hờn tức) và chuyển cuộc đời nầy thành quốc độ Hoan hỷ. Người hành giả theo bước chân Ngài, phải thể nhập hạnh đức của Ngài làm Diệu sắc thân của mình, để có cái nhìn thấu suốt bản chất của các hiện tượng tâm và vật, để từ đó nhận rõ ràng các yếu tố của tâm như bát phong hay những phiền toái của cuộc đời, tâm thiện hay tâm bất thiện v.v… chỉ là phân bón thêm cho gốc rễ giải thoát của mình, đó được gọi là Đối trị Tất đàn.

Nhờ vậy, mới giải quyết được tận căn nguyên, gốc rễ của khổ đau, những nhân tố làm nên khổ đau và các ảo tưởng sai lầm chấp ngã, mới đầy đủ duyên tố kiến tạo được cho mình và người một dòng sinh mạng kỳ diệu, để cuộc đời được an lạc, hạnh phúc thực sự.

Gương mặt Phật hiền
dáng người thanh thoát
muôn vạn Từ bi soi rọi khối mong chờ
để khởi lên niềm ao ước
để dấy lên bao tâm niệm
cúi đầu đảnh lễ
cho ánh đèn giáo Pháp lan cùng khắp
cho tâm hờn rơi bỏ vọng mê..
Ngài thị hiện vào đời
cùng khắp Hoá thân
là em bé cười vui,
là nõn nà tấm lòng của mẹ
là vầng trán nhăn mòn mỏi của cha
là những người đến với nhau vì tình huynh đệ
vì bất hạnh nở nhụy hoa tâm
là hạnh phúc chở đời qua bờ Chân Vọng
Bàn tay Địa Xúc Ấn
tự tại giữa bao phiền não
giữa ba cõi không an
chạm vào khối vô minh
cho tan vỡ biến thành tràng hoa đẹp
chạm vào lòng tham
cho mở rộng lòng, như mưa hoa rơi xuống
chạm vào lửa thù hận
lửa tắt cháy thành thương yêu
nâng đở khổ đau
cho nước từ bi ruới tẩm
hạnh phúc trở về trên từng ánh mắt
ma quân cúi đâu
trời người qui kính
muôn loài hớn hở
nam mô Phật
niệm danh hiệu Ngài
cho Phật trong tâm mọi người tươi mãi….