Trang chủ Thời đại Xã hội Xã hội hài hòa

Xã hội hài hòa

126

1. Nên chú trọng đầy đủ những lĩnh vực xã hội

Hiện giờ một số khá đông chúng ta tập trung vào lĩnh vực kinh tế và quan tâm chưa đủ đến những lĩnh vực khác. Trong khi đó, khuyến cáo của UNESCO từ mấy thập niên này là: “Văn hoá là động lực của kinh tế”. Chúng ta có thể nói thêm, văn hoá quyết định hướng đi của kinh tế và xã hội.

Có nhà văn rất nổi tiếng và rất có công trong thời kỳ đổi mới của văn học nước ta cho rằng: doanh nhân là “tầng lớp mới, có tư duy hiện đại nhất, tiên tiến nhất trong xã hội”, giữ “vai trò hàng đầu có tính quyết định của họ”, “chính giới doanh nhân mới này sẽ xác định nên nền văn hoá mới của chúng ta, nội dung, hình dáng, phong cách của nó”.

Ai cũng nhận thấy thoát khỏi nghèo đói của xã hội ta là vấn đề hàng đầu cấp thiết và phải giải quyết một cách căn bản trước năm 2010. Sự kém phát triển về kinh tế của chúng ta, sau nhiều thập kỷ chiến tranh và tìm chưa ra phương hướng, là một vấn đề cần giải quyết càng nhanh càng tốt mới mong thoát khỏi tụt hậu về mọi mặt trong thế giới ngày nay.

Nhưng chúng ta còn phải chú trọng đến những lĩnh vực khác, bởi vì xã hội luôn luôn tiến một cách đồng bộ.

Chẳng hạn một vấn đề ngoài kinh tế, vấn đề văn hoá. Sau một vụ việc kém văn hoá là “Nhật ký Vàng Anh”, trong tháng 10 và 11/2007 báo Tuổi Trẻ mở diễn đàn “Tình dục với tuổi thanh niên”. Bên phái trẻ chủ trương “tình dục thoáng” là năng nổ nhất, hùng biện nhất, có lẽ tự biện hộ cho mình là động lực chính.

Phái này nói Âu Mỹ là tự do tình dục, mình phải bắt chước, đuổi kịp văn minh của họ, còn sự giữ gìn là “xưa, lỗi thời”, là “đạo đức”. Lớp trẻ phía kia, cũng nói một cách cảm tính nhưng cũng rất hùng biện: “Tôi không muốn lấy một người vợ không còn trong trắng”. Vào lúc đúc kết, với sự tham gia của các bác sĩ, các nhà văn hoá, tiến sĩ tâm lý học… nhưng những vị này cũng không nói gì hơn, cũng hàng hai “cần phải giáo dục giới tính”, “các bậc cha mẹ cần quan tâm đến con cái hơn”, chẳng có kết luận nào rõ ràng.

Hầu như cả ba phe, hai trẻ một già, đều mặc nhiên công nhận “Âu Mỹ là tự do tình dục”. Nếu chúng ta, dù chưa đi Âu Mỹ, nhưng có biết văn hoá và tôn giáo Âu Mỹ qua sách đọc, phim ảnh… cũng phải đoán được Âu Mỹ không chủ trương như vậy.

Quả thế, cuối tháng 11, trên Tuổi Trẻ cuối tuần, tác giả Minh Tiến viết bài “Quan niệm về tình dục trước hôn nhân và giáo dục giới tính: kết quả nghiên cứu từ Mỹ” cho thấy đa số người Mỹ cho rằng “tình dục trước hôn nhân là không đúng về mặt đạo đức” và “giáo dục giới tính ở học đường chỉ nên giảng dạy về sự tiết dục”.

Chúng ta thấy, chúng ta không chỉ yếu kém về kinh tế mà còn yếu kém về văn hoá. Và chắc không ai có thể thống kê rõ ràng sự yếu kém văn hoá tác động lên kinh tế như thế nào, làm giảm bao nhiêu GDP.

Một chuyện khác. Các kỹ sư và công nhân Việt Nam ở một công trình do Hàn Quốc xây nói rằng làm việc với Hàn Quốc thì “khó” lắm, xe chở bùn từ nơi đào móng khi chở đi đổ, nếu nước bùn chảy xuống đường, họ sẽ cho xe chứa nước đi rửa sạch. Đây đâu chỉ là vấn đề kinh tế, mà chủ yếu là vấn đề văn hoá.

Một chuyện nữa. Trước khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết qua thăm Nhật, Thủ tướng Fukuda đã đọc một diễn văn ngắn, nêu lên: “Sự tương đồng giữa văn hoá Nhật và Việt Nam, ăn cơm bằng đũa và cùng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa”. Có lẽ, sự hợp tác chiến lược, một cái nhìn trải qua không chỉ hàng thập niên mà có thể hàng thế kỷ, là một cái nhìn mang yếu tố văn hoá như vậy.

2. Ba lĩnh vực của đời sống

Quan sát đời sống, chúng ta dễ dàng thấy ra:

a. Có một thế giới của tự nhiên, thế giới vật lý: núi sông, đất đai, rừng biển… nói rộng là một vũ trụ vật lý. Thế giới ấy khi ta sinh ra nó đã có sẵn ở đó. Chúng ta có thể biến đổi nó nhưng có những định luật vật lý không thể thay đổi. Chúng ta không thể làm nóng chảy sắt ở 1000C được. Chúng ta phải tuân theo những định luật đó. Thân thể chúng ta thuộc về thế giới vật lý, tuân theo quy luật sinh già bệnh chết. Có thể dễ dàng thấy trong thế giới vật lý chúng ta ít tự do. Đây là lĩnh vực mà văn minh Đông Á gọi là Địa.

Trong thời hiện đại, các bộ môn khoa học kỹ thuật, sinh học, xây dựng, nông nghiệp, địa chất, khai thác tài nguyên… nói chung là các ngành chú trọng đối tượng là thế giới vật lý, con người vật lý, nhằm biến đổi, cải tạo, nhân hoá thế giới vật lý và con người vật lý, tất cả những ngành ấy nằm trong lĩnh vực vật thể, thì nằm trong phạm trù Địa.

b. Có một thế giới của con người, với lý trí, tình cảm, ý chí, với những hy vọng, ước vọng cao cả. Mức độ tự do nhiều hơn nhưng do vậy mà tinh tế hơn, phức tạp hơn. Đây là lĩnh vực mà Đông Á gọi là Nhân. Những khái niệm thiện, ác, từ thiện, nhân đạo, những khái niệm toán học, vật lý, kinh tế, chính trị, những loại ngôn ngữ… nhờ những cái này con người vượt lên thế giới tự nhiên, thế giới sự vật.

Những ngành chủ yếu nghiên cứu về con người: xã hội học, luật pháp, kinh tế, chính trị, văn học, nghệ thuật, đạo đức, tâm lý, triết học… tất cả những hiểu biết về con người được tổng hợp, được tinh chế, thành ra văn hoá. Tóm tắt, văn hoá là thế giới quan và nhân sinh quan, những quan niệm sống, những cách sống, những giá trị sống.

Tất cả những bộ môn về con người tạo thành văn hoá. Ngay cả chính trị kinh tế cũng do văn hoá quyết định: những ý thức hệ, những triết học, những tư tưởng. Chính trị là để thực hiện những khái niệm, những lý tưởng văn hoá. Chẳng hạn ngày xưa, vua được gọi là thiên tử, và với tư cách “nội thánh ngoại vương” (trong là thánh, ngoài là vua), ông có nhiệm vụ đưa toàn dân đến Thiên tính của họ.

Hai lĩnh vực Địa và Nhân này giao thoa với nhau, tương tác với nhau, tương thông với nhau, dìu dắt nhau tiến bộ. Chẳng hạn có những vấn đề sinh học không tự giải quyết được (vì đụng chạm đến con người), phải nhờ đạo đức và văn hoá giải quyết: nhân bản người, tế bào chủ hay tế bào gốc, biến đổi gene…

Kinh tế và khoa học kỹ thuật đứng riêng thì không giải quyết được chính nó, nhiều khi gây tai hại, chẳng hạn sự tàn phá môi trường trái đất. Văn hoá khiến con người biết sử dụng kinh tế và khoa học kỹ thuật như thế nào để thăng tiến chính mình. Ngược lại, văn hoá để xác định những giá trị cho con người, những điều nên làm và không nên làm, nên hướng tới và không nên hướng tới, cũng luôn luôn nhờ vào những khám phá ở lĩnh vực Địa.

Những cao điểm của khoa học đều tiếp cận và nhô lên trong lĩnh vực văn hoá, có khi làm biến đổi những quan niệm văn hoá, như thuyết Tương đối và Vật lý lượng tử ảnh hưởng đến thế giới quan và nhân sinh quan. Văn hoá rất quan trọng. Trong đời sống hàng ngày, nó khiến chúng ta biết chọn lựa, có thái độ đúng đắn trước đời sống, nó cho chúng ta những giá trị sống.

Một người có 300 ngàn, họ tiêu xài như thế nào trong ngày nghỉ cuối tuần này là tuỳ thuộc vào trình độ văn hoá của họ. Có người chỉ tiêu xài 300 ngàn nhưng giá trị hơn người khác tiêu 3 triệu. Ba triệu mà tiêu xài vô bổ, có khi sinh hại thì tạo ra giá trị quá ít, có khi còn làm hại cho bản thân, gia đình, xã hội.

Các nước G7, GDP họ không hơn kém nhau bao nhiêu. Nhưng người Pháp khác với người Anh là do những bản sắc văn hoá. Những gì làm cho mỗi nước hãnh diện – khi kinh tế bằng nhau – là những nhà khoa học, những nhà văn, những nhà nghệ thuật, những triết gia, những chính trị gia nào được ghi vào từ điển. Cách làm kinh tế Nhật khác với Mỹ; xe Nhật, chỉ nói về hình dáng, khác xe Đức, xe Mỹ. Sự khác biệt đó đều do văn hoá mỗi nước quyết định.

Văn hoá là sự thăng hoa, sự nhân tính hoá những hiểu biết về thế giới vật lý, thế giới tâm lý, làm cho con người càng nhiều nhân tính hơn, càng đẹp hơn, càng đúng hơn, càng tốt lành hơn (Chân Thiện Mỹ). Văn hoá là để biết sống. Sử dụng và biết sống với thiên nhiên (Địa), biết sống với người khác (Nhân), và biết sống với cái thiêng liêng, cái siêu việt ở trong chính mình (Thiên).

c. Vậy thì lĩnh vực thứ ba là gì? Đó là tôn giáo. Trái với đa số người thời Khai sáng, ngây thơ tin rằng khoa học càng tiến thì tôn giáo càng bị đẩy lùi, cho tới lúc tôn giáo hoàn toàn biến mất. Cuối thế kỷ XX, tình hình hoàn toàn ngược lại: chẳng hạn, các nhà khoa học trong mọi lĩnh vực ở Mỹ thì có hơn 80% tin vào tôn giáo.

Có thể họ không theo hẳn một tôn giáo nào, họ chỉ tin vào một số chủ đề nào đó của tôn giáo, nhưng ít nhất tin rằng ngoài và vượt khỏi thế giới vật lý và thế giới tâm lý, còn có “một cái gì đó”. Với khoa học, thậm chí có một số khá đông đồng ý với Karl Popper: Nhiệm vụ của khoa học là để kiểm sai (falsification) hơn là để kiểm đúng (vérification).

Có một thế giới, một lĩnh vực cao hơn lý trí, tình cảm, ý chí, một thực tại vô hạn và tối hậu, đầu tiên và cuối cùng nào đó. Tất cả tôn giáo đều đồng ý nhau ở điểm này, tuy do mức độ cao thấp khác nhau, triệt để hay chưa triệt để, mà quan niệm về thực tại ấy có khác nhau.

Tôn giáo là xác nhận có một thực tại nền tảng, tối hậu và tối thượng nào đó, gọi bằng những tên gì gì đó tuỳ theo mỗi nền văn hoá, và đạo là con đường đưa con người tiếp xúc với thực tại siêu không gian siêu thời gian đó và do đó con người đạt được tự do. Tiếp xúc, tiếp thông và hợp nhất: nhân tính hợp nhất với thiên tính; đạt đến Niết bàn; đạo không thể lìa khỏi con người, nếu lìa được thì không phải là đạo… đó là những cách nói của các tôn giáo.

Phật giáo gọi thực tại ấy là Niết bàn, Phật tính, Chân như, Pháp thân và nhiều danh từ khác; Khổng giáo thì gọi là Thái cực, Thiên mệnh; Lão giáo gọi là Đạo; hay nói theo ngôn ngữ bây giờ, thực tại tối hậu, cái hiện tiền, cái bây giờ vĩnh cửu… đây là lĩnh vực Thiên, cái vô hình vô ảnh, cái không ở đâu cả mà không đâu không có. Con người có thể đạt đến lĩnh vực này, và cũng có nhiều thành ngữ để nói về việc đó: về nguồn, hợp nhất, chứng đắc, giác ngộ, đắc đạo…

Lĩnh vực này ảnh hưởng rất nhiều đến xã hội. Nền văn minh Tây phương mà chúng ta đang học hỏi ở một số mặt, nhất là lĩnh vực Địa, phát xuất từ tôn giáo và triết học Hy-lạp, hoà với Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo đã làm nên sinh mệnh tinh thần Tây phương.

Cứ xem các khoa học gia, các kinh tế gia, các chính trị gia của họ đối với tôn giáo như thế nào là biết con người bên trong của họ. Có những nhà sử học, chính trị học cho rằng thế kỷ XXI này nếu có chiến tranh, đó là sự đụng độ giữa các nền văn minh, mà đụng độ giữa các nền văn minh có nghĩa là đụng độ tôn giáo.

Những gì chúng ta thấy hiện giờ giữa hai thế giới Hồi giáo và thế giới Tây phương chứng minh cho nhận xét đó. Hoà bình thế giới, nếu có, sẽ là nền hoà bình giữa các tôn giáo, và tôn giáo nào có tính bình đẳng nhất, lòng khoan dung nhất, ít chấp trước nhất sẽ là tác nhân quan trọng nhất để đóng góp cho việc đó.

Tôn giáo sinh ra văn hoá. Đó không chỉ là nhận xét của chúng ta khi nhìn lại lịch sử văn hoá Việt Nam từ khi có chữ viết cho đến bây giờ. Hầu như tất cả những nhà xã hội học, nhân loại học, tâm lý học, sử học đều có ý kiến như vậy. Đó là Emile Durkheim (1858-1917) và Max Weber (1846-1920), hai nhà khai phá ra môn xã hội học, Malinowsky (1884-1942), Willam James (1842-1910), Arnold Toynbee (1889-1975)…

Một nhà vật lý vĩ đại như Newton ở thế kỷ XVII, số lượng ông viết về vật lý ít hơn số lượng ông viết về tôn giáo. Và những nhà vật lý khai sinh vật lý học hiện đại ở thập niên đầu của thế kỷ XX, hầu như đều bị “ám ảnh” bởi tôn giáo. (Chẳng hạn, xem Einstein and Buddha, The Parallel Sayings, MC Farlane, Berkeley 2002).

Ba lĩnh vực này giao thoa với nhau, trong cái này có một phần của cái kia, thậm chí nhìn theo cái nhìn Phật giáo thì chúng tương dung tương nhiếp nhau. Người tiến hoá càng cao thì càng thể nghiệm và sống được ba lĩnh vực hài hoà với nhau, thậm chí hợp nhất với nhau, Thiên Địa Nhân nhất thể. Nói theo lý tưởng Đại thừa, đó là sự chuyển hoá của thế giới và con người, để Sắc thân, Báo thân và Pháp thân hợp nhất. Con người toàn diện là người hài hoà được ba lĩnh vực này, và giá trị người đó càng tăng theo mức độ sâu thẳm của sự thực hiện được mối hài hoà đó.

3. Xã hội hài hoà

Xã hội vốn mang nghĩa hài hoà. Với Tây phương là société, society từ tiếng La-tinh socius, có nghĩa companion, bạn cùng sống, bạn đồng hành.

Ước mơ và thực hiện của Khổng Tử là đi từ xã hội tiểu khang đến xã hội đại đồng. Có nền văn hoá, tôn giáo thực sự nào không nhắm đến việc thực hiện điều đó?

Vậy thì xã hội hài hoà là gì? Trước hết, là sự hài hoà trong từng bộ môn. Chẳng hạn kinh tế phải tạo ra sự hài hoà trong chính nó: hài hoà giữa thành thị với nông thôn, hài hoà giữă giàu và nghèo, hài hoà với môi trường sinh thái, với địa lý tự nhiên, với tài nguyên… Hài hoà được như thế tức là kinh tế phát triển bền vững. Mỗi bộ môn cần có sự hài hoà trong chính ngành ấy.

Sự hài hoà căn bản và rộng lớn là sự hài hoà của ba lĩnh vực, ba phạm trù ở trên, thế giới vật lý (Địa), thế giới con người (Nhân) và thế giới tâm linh (Thiên). Việc thực hiện sự hài hoà và hợp nhất này đều do con người (Nhân) đảm nhiệm. Đây là sứ mệnh vinh quang của con người. Qua con người, Đất và Trời được hài hoà và hợp nhất. Hay nói theo hệ thống Bát nhã của Phật giáo, qua con người, thế giới vật lý hay thế giới hiện tượng (sắc) được hài hoà và hợp nhất với thế giới bản thể (tánh không). Hoàn thành được sứ mệnh ấy là hoàn thành được ý nghĩa của con người và cũng là hoàn thành ý nghĩa của vũ trụ.

Nói theo những bộ môn đại diện cho mỗi lĩnh vực ở trên, xã hội hài hoà là sự hài hoà của ba lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật với văn hoá và với tôn giáo. Sự bền vững, giàu mạnh, phát triển (cả vật chất và tinh thần) của xã hội và của ba lĩnh vực đó trong một sự hài hoà đồng bộ với nhau.

Lời kêu gọi “Hãy cứu lấy trái đất” từ khắp các diễn đàn, các hội nghị cho chúng ta thấy một điều: Trong thế kỷ XX, con người đã quá chú trọng vào kinh tế và khoa học kỹ thuật, còn hai lĩnh vực văn hoá và tôn giáo thì yếu kém, do đó thế giới đã mất cân bằng. Đây là sự mất cân bằng phát triển không hài hoà giữa ba lĩnh vực Địa Nhân Thiên.

Hơn nữa càng tiến lên, càng phát triển thì sự hài hoà càng có, sự hợp nhất càng dễ thực hiện. Sự hài hoà đích thực thì không chỉ ở mặt ontique (vật thể, hiện tượng), nghĩa là bằng những biện pháp kinh tế, chính trị, kỹ thuật, mà phải ở mặt ontologique (nền tảng, bản thể), nghĩa là bằng tôn giáo (tôn giáo của con người và cho con người).

Khổng giáo và Lão giáo, kể cả trống đồng thời tiền sử ở Việt Nam, văn hoá Ấn với mục đích hài hoà và hợp nhất (đây là ý nghĩa chữ yoga), đều nhấn mạnh đến Hoà, nghĩa là sự hài hoà của ba lĩnh vực Thiên Địa Nhân. Chính vì lý tưởng chung này mà Phật giáo Đại thừa dễ dàng đi vào vùng Đông Á, đã trở thành cột trụ chính làm cho triết học và văn hoá bản địa phát triển rực rỡ. Bởi vì mục đích của Đại thừa là sự hoà hợp, hợp nhất của sinh tử và Niết bàn, của Sắc và Không, của con người chúng sinh và Phật tính, của đời và đạo.

Con đường Đại thừa là chuyển hoá chứ không loại bỏ, chuyển hoá thế giới vật lý này thành một quốc độ thanh tịnh và an vui, chuyển hoá con người thành những bậc cao cả mà chúng ta gọi là Bồ tát và Phật. Chúng ta thấy mục đích không khác, chỉ có điều Phật giáo tỏ ra hữu hiệu hơn, sâu sắc hơn, như lịch sử cho thấy.

Nói rộng ra, đó là lý tưởng chung của mọi nền văn hoá và tôn giáo, dù quan niệm có khác nhau như thế nào về cái thực tại tối hậu (Thiên hay Thiên tính hay Đạo). Một xã hội hài hoà, một thế giới hài hoà và hợp nhất, điều đó mãi mãi là lý tưởng soi đường cho lịch sử con người. Phật giáo với rất nhiều phương pháp (phương tiện thiện xảo) luôn luôn nhắm đến Hiểu biết và Tình thương (Trí tuệ và Từ bi), với rất nhiều niềm tin vào chính con người (tín), rất nhiều hành động vị tha (hạnh), rất nhiều chí nguyện (nguyện) đã từng phát triển giúp cho nhiều xã hội phương Đông phát triển, và có thể phụng sự cho cả thế giới ngày nay.

Bai viet xuan Mau Ti - click here to read