Trang chủ Diễn đàn Từ chuyện bức xúc ở chùa Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương)…

Từ chuyện bức xúc ở chùa Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương)…

146

 

KHI BAN QUẢN LÝ ĐỘC QUYỀN TỪ "CÔNG ĐỨC"

 

Chưa bước vào chính điện chùa Côn Sơn, Phật tử và thiện nam tín nữ đã nghe rõ tiếng loa phát giọng ngọt ngào, khuyến khích mà cương quyết, đanh thép của một cô gái trẻ trực bàn ghi công đức của Ban quản lý di tích: “Quý khách thập phương chú ý, chỉ có một nơi duy nhất để ghi công đức là phía bên phải của chùa….” Bên trong chùa, về phía bên phải là bàn ghi công đức của Ban quản lý với những cô gái trẻ ăn diện đang tán chuyện sôi nổi, đèn điện sáng choang, trưng biển ghi công đức to, rõ ràng, trang bị âm thanh đầy đủ. Cứ mỗi khi có người phát tâm công đức, chiếc loa lại được dịp oang oang phá tan bầu không khí thanh tịnh cần có của chốn thiền môn, át đi cả tiếng tụng kinh, niệm Phật, cầu khấn.

 

Khách thập phương sẽ thấy những điều thông tin trên loa của Ban quản lý là bình thường nếu như không nhìn sang phía đối diện. Ở đó có cũng có một chiếc bàn nhưng lặng lẽ hơn, bình dị hơn, không đèn điện chiếu sáng, không bảng hiệu, không loa mà chỉ có màu nâu sòng của Phật tử chấp tác, của sư ông cũng đang ngồi nhận tịnh tài cúng dàng Tam bảo.

 

Bên trong chùa, khu nhà Tổ còn có nhiều hòm công đức có dán niêm phong của Ban quản lý và Phòng Kế hoạch – Tài chính huyện Chí Linh. Do khách thập phương thường không có thói quen để tiền vào hòm công đức mà đặt lên ban thờ nên luôn có người của Ban quản lý di tích túc trực để mau chóng thu lượm tiền cho vào hòm.

 

Khi được hỏi vì sao lại có hai nơi ghi công đức trong Chùa, một cô gái trẻ liếc xéo sang phía đối diện rồi đáp: “Họ nói với anh thế hả? Họ lừa đấy. Ở đây mới ghi công đức thôi, còn bên ấy là nơi cúng dàng Tam bảo để cho các sư tiêu…” Thì ra, với cách hiểu như vậy thì tiếng loa kia cũng có lý. Chỉ khổ khách thập phương không biết nên “ghi công đức” hay “cúng dàng Tam bảo”!!! Người viết bài cũng xin miễn bình luận về hiểu biết, cái tâm và cách làm việc của những người làm quản lý di tích ở đây.

 

Đại đức Thích Thanh Viễn, trụ trì chùa Côn Sơn cho biết Nhà Chùa không được biết, không được sử dụng và cũng không được giám sát quá trình chi tiêu, sử dụng tiền công đức do Ban quản lý di tích thu.

 

NHỮNG HỆ LỤY

 

Thực trạng chính quyền các địa phương (thông qua ban quản lý di tích) lấy danh nghĩa tạo nguồn kinh phí tu bổ, tôn tạo di tích cấp quốc gia để bán vé tham quan, quản lý toàn bộ tiền công đức như ở chùa Côn Sơn không phải là hiện tượng hiếm gặp, và chỉ là phần nổi của một vấn đề lớn hơn nhiều, đó là quản lý việc chùa như thế nào. Đại đức Thích Thanh Viễn cho biết thêm là những việc khác như trùng tu, xây dựng liên quan đến chùa, kể cả việc tổ chức lễ hội cuối tháng giêng hàng năm cũng do Ban quản lý di tích phụ trách toàn bộ mà không có sự phối hợp và hỏi ý kiến Chùa. Thậm chí, khi Ban quản lý di tích xây dãy nhà hành lang bên tả và hữu, Nhà Chùa phải đề nghị nhiều lần mới được mở thêm một cửa để tạo thuận lợi cho việc đi lại giữa khu nhà Tăng và Chùa. Các Thầy ở chùa chỉ có bổn phận là tụng kinh, niệm Phật và phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của Phật tử.

 

Việc lấy cớ tạo nguồn kinh phí tu bổ di tích để chính quyền bán vé tham quan, quản lý toàn bộ tiền công đức, quản lý việc xây dựng tu bổ chưa chắc đã thuyết phục. Phật tử, thiện nam tín nữ thường tin tưởng ở các vị Tăng Ni hơn vì họ là một trong Tam Bảo, là người Thầy dẫn dắt họ trên đường giác ngộ và giải thoát. Về mặt thế gian, Tăng Ni là người xuất gia, chỉ thuần túy dùng tịnh tài vào phụng sự Đạo Pháp. Hiện nay, hàng nghìn ngôi chùa trên cả nước được phục dựng, tôn tạo hay xây mới chính là nhờ sự đứng ra kêu gọi, vận động của chư Tăng Ni. Việc xây dựng chùa Đồng và việc Ban Quản lý di tích Yên Tử bỏ vé tham quan chính là ví dụ sống động nhất.

 

Hơn nữa, chùa là một cơ sở tôn giáo, là đơn vị của Giáo hội. Vì thế, chùa phải là nơi thờ tự, nơi hoằng pháp lợi sinh, kế thừa, duy trì và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức và tâm linh truyền thống của dân tộc, là nơi hành đạo của Tăng Ni, Phật Tử. Để làm tốt chức năng này, không ai khác mà chính là các Tăng Ni, Phật tử ở chùa phải giữa vai trò chủ động, quyết định. Các chùa như Phật Quang (Bà Rịa – Vũng Tàu), Hoằng Pháp, Vĩnh Nghiêm, Từ Tân (TP. Hồ Chí Minh), hệ thống thiền viện Trúc Lâm trên cả nước do HT. Thích Thanh Từ làm Viện chủ, Lý Triều Quốc Sư, Trấn Quốc, Quán Sứ (Hà Nội)… chính là những điển hình đã phát huy được giá trị của ngôi chùa. Trong khi đó các chùa có bán vé tham quan như Côn Sơn, Tây Phương, chùa Thầy, chùa Dâu, Bút Tháp thì giống như các hiện vật trong bảo tàng, hàng ngày để khách thập phương đến tham quan, ngó nghiêng, thắp vài ba nén hương, cầu khấn dăm điều, chụp mấy kiểu ảnh rồi ra về.

 

Ngoài ra, dường như có xu hướng coi các lễ hội, các chùa nổi tiếng là nơi tạo nguồn thu do địa phương dẫn đến hiện tượng tận thu (tiền vé thăm quan, vé gửi xe máy, ô tô, tiền công đức), thương mại hóa lễ hội (thu tiền chỗ bán hàng, tổ chức các trò chơi mang tính may rủi, mua bán ồn ào, xô bồ, đắt đỏ trong khu di tích) trong khi lại ít quan tâm đến những giá trị như đã đề cập ở trên. Người dân địa phương cũng có tâm lý làm một mùa lễ hội, ăn cả năm nên sẵn sàng chèo kéo, đeo bám, nói thách, chặt chém khách thập phương.

 

 

MÔ HÌNH NÀO CHO QUẢN LÝ CHÙA DI TÍCH QUỐC GIA

 

Trước những thực trạng trên, Giáo hội và Bộ Văn hóa cần phối hợp để tìm ra một mô hình quản lý hiệu quả các chùa là di tích lịch sử cấp quốc gia, trong đó phải đảm bảo các nguyên tắc:

          Chùa là cơ sở của Giáo hội, là nơi hành đạo, là nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của Phật tử. Mọi hoạt động quản lý trước hết phải phục vụ và khuyến khích những hoạt động này.

          Ban quản lý di tích bao gồm Tăng Ni, Phật tử của chùa, phải do vị sư trụ trì đứng đầu, có tiếng nói quyết định. Nhân sự của ngành văn hóa, của chính quyền địa phương chỉ đóng vai trò tư vấn, giám sát, hỗ trợ.

          Tiền công đức phải công khai, minh bạch, không đưa trực tiếp vào ngân sách địa phương mà do Ban quản lý di tích quản lý thu chi, được sử dụng vào các mục đích:

+ Tôn tạo, tu bổ, xây dựng di tích (cùng với ngân sách do Nhà nước cấp) thông qua dự án, các chương trình hay các sự vụ

+ Tiền dầu đèn hương đăng

+ Chi phí sinh hoạt tôn giáo: tổ chức lễ hội, in ấn kinh sách, thuyết pháp, từ thiện xã hội

+ Đóng góp cho ngân sách Tỉnh hội, Trung ương Giáo hội

+ Nộp ngân sách địa phương (nếu dư)

 

Chùa chỉ thực sự là chùa nếu như ở đó, những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức Phật giáo được phát huy, vai trò của Tăng Ni, Phật tử được coi trọng. Chúng ta vẫn tiếp tục mơ ước một ngày, chùa Côn Sơn sẽ lại trở thành một trung tâm Phật giáo như thời của Thiền Sư Huyền Quang, đệ tam Tổ Thiền phái Trúc Lâm, và các danh lam cổ tự khác cũng thế.