Trang chủ Diễn đàn Về bài viết “Sốc vì chồng bỗng nhiên xuống tóc đi tu”

Về bài viết “Sốc vì chồng bỗng nhiên xuống tóc đi tu”

114

Vào ngày 15 Tháng 2, 2011 vừa qua thầy Thích Minh Trí – trụ trì Chùa Phúc Lâm, Biên Hòa có gửi cho tôi bài viết “Sốc vì chồng bỗng nhiên xuống tóc đi tu” của Phi Thanh – VnMedia  và yêu cầu tôi đóng góp một vài ý kiến để làm sáng tỏ vấn đề.

Thú thực trong lúc này tôi quá bận chuyện nhà, nhưng vì cảm mến thầy cho nên không đành từ chối cho nên gửi cho thầy cũng như quý độc giả món quà “khai bút đầu Xuân” như thầy nói trong thư.

 

Kính thưa quý vị. Trong cõi đời này, từ Âu sang Á, từ ngàn xưa đến giờ, chuyện ngang trái (chướng duyên) xảy ra như cơm bữa. Nếu trong cuộc đời này, chuyện gì cũng thuận buồm suôi gió thì nó đã trở thành một cung trời và Đức Phật, chư vị Bồ Tát, Hiền Thánh cũng chẳng ra đời làm gì và bài viết của tôi đây cũng vô duyên và dư thừa.

Một trong những nghịch cảnh đó là – cuộc sống vợ chồng đang đầm ấm, hạnh phúc, có khi trên nhung lụa, bỗng dưng vợ hay chồng bỏ đi xuất gia đầu Phật.

Hoặc đứa con mà mình cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, kỳ vọng vào nó với cả tương lai tươi sáng, chỗ nương tựa lúc tuối già, bỗng dưng nó vào chùa sống đời đạo hạnh.

Đó là câu chuyện xảy ra nóng hổi mới đây, theo bài tường thuật của Phi Thanh thì: Cặp vợ chồng Trần Hữu Trung và Nguyễn Hoàng Giang đang sống trong êm đềm, hạnh phúc, yêu nhau từ thưở học trò, tình như mộng như mơ, “Vậy mà bỗng nhiên Trung nằng nặc đòi xuống tóc đi tu…đòi mang theo đứa con lớn cùng bố vào chùa xuống tóc.” (*)

Rồi chuyện của Nguyễn Văn Dũng – Giám Đốc Điều Hành (CEO) sau chuyến hành hương Tây Tạng trở về tuyên bố mình đã xuất gia theo Phật từ lúc còn ở Tây Tạng, gây bàng hoàng và khổ đau cho Hà – người vợ.

Rồi lại chuyện của của Hải – một kỹ sư trẻ- một ngày đẹp trời nào đó- “gửi đơn xin thôi việc với lý do bố mẹ bảo cần phải đi tu để trả nợ cho kiếp trước và được an lành ở kiếp này.” (*)

Thế nhưng trong bài phóng sự, thay vì trình bày trung thực biến cố theo đúng chức năng của ký giả chuyên nghiệp (professionals) được đào tạo trong các đại học về báo chí,  Phi Thanh đã đưa ra quan điểm phê phán của chính mình và dùng luận cứ của hai nhà tâm lý tên Lưu và Trịnh Trung Hòa để củng cố thêm sự phê phán đó.

Tâm lý gia Trịnh Trung Hòa nói như sau: “Có điều, khi một vấn đề đã xảy ra, rất có thể sẽ trở thành hiện tượng và nhanh chóng lan truyền nên cần ngăn chặn nó. Theo phân tích của ông Hoà, những người hiện nay đang có hành vi như nói trên thực chất là đang muốn trốn chạy cuộc đời thực để đi tìm hạnh phúc ảo tưởng nào đó có thể ở kiếp này hoặc ở kiếp sau.

Hành vi này xuất hiện là dựa trên một quan niệm về hạnh phúc, cuộc sống, dựa trên những quan niệm của mỗi người khác nhau, không phải là cái gì có thể đo đếm được.” (*)

Còn nhà tâm lý tên Lưu thì cho rằng “Cũng đồng quan điểm này, anh Lưu, một chuyên gia tâm lý khác cho biết, việc lánh đời bằng cách đi tu chẳng qua là việc mơ hồ trong nhận thức về mục đích tồn tại trong cuộc sống của mỗi con người.

Bất cứ ai cần phải xác định được cụ thể về cuộc sống của mình đó là mỗi con người được cha mẹ sinh ra nên tồn tại như thế nào, cần phải sống như thế nào với cộng đồng và sống như thế nào để có cuộc sống tốt nhất với mình.

Thực hiện được việc này, mỗi con người sẽ thấy giá trị của mình với cuộc sống và không xuất hiện những quan niệm sai lầm.” (*)

Nhận xét trước tiên của tôi là không biết quý ông Lưu và Trịnh Trung Hòa tốt nghiệp đại học tâm lý nào? Chức năng của các tâm lý gia là phân tích, phân tích một cách sâu sắc và cặn kẽ một vấn đề mà người bình thường không nhìn thấy. Nhà tâm lý không phải là quan tòa để phê phán.

Trước một sự kiện xã hội, một bà già trầu, một chị bán rau, một cô gái bán bia ôm cũng có thể phê phán rân trời, nhưng phân tích tới nơi tới chốn của vấn đề, thì bà già trầu và những cô gái trên không làm được và khi đó người ta phải tìm đến các nhà tâm lý.

Nhà tâm lý giống như các bác sĩ là chẩn bệnh, nhưng khác hơn các bác sĩ, nhà tâm lý “chẩn bệnh” cả hai phía.

Chẳng hạn, khi một ông chồng ngoại tình và người vợ đau khổ, ở Hoa Kỳ, các cơ quan chức năng (liên hệ) thường đề nghị người vợ tìm cách giải quyết (về mặt tâm lý) nơi các nhà tâm lý trị liệu.

Thông thường thì các nhà tâm lý lắng nghe, rồi phân tích những động cơ thúc đẩy từ cả hai phía (vợ lẫn chồng), qua sự phân tích này, tức qua cái nhìn thấu đáo vấn đề (Phật Giáo gọi là nhìn sự vật ở thể Chân Như của nó) mà người vợ từ từ nguôi ngoai hay tự tìm thấy đường lối giải quyết cho chính mình.

Tới gặp các nhà tâm lý trị liệu không có nghĩa là người vợ tới nghe nhà tâm lý chửi rủa, kết tội người chồng. Muốn nghe lời chửi rủa, khen chê, chúng ta chỉ cần mua vài két bia, vài chai rượu, cộng với đồ nhắm, mời bạn bè thân tới đấu láo…nghe cho sướng lỗ tai, nhưng khi khách về rồi, khổ đau vẫn còn đó.

Nói vậy có nghĩa khi các nhà tâm lý làm chuyện phê phán là sai lầm, ngôn ngữ bình dân gọi là “trật đường rầy”. Thế mà hai nhà tâm lý nói trên không những phê phán mà còn phê phán sai nữa.

Thứ nhất: Ô. Trịnh Trung Hòa nói rằng “rất có thể sẽ trở thành hiện tượng và nhanh chóng lan truyền nên cần ngăn chặn nó.”

Xin thưa rằng chuyện các vị có gia đình hạnh phúc, êm ấm bỏ tìm chân lý hoặc xuất gia đâu phải chỉ mới đây? Nó đâu phải là một hiện tượng hay cái mode hay phong trào hay một bệnh truyền nhiễm (lan truyền) như ông nói.

Năm xưa Đức Phật bỏ cả cung vàng điện ngọc, bỏ cả vợ con xuất gia. Vua Trần Nhân Tông vứt bỏ địa vị sang quý nhất trong thiên hạ để theo hạnh đầu đà.

Và suốt chiều dài lịch sử Việt Nam không thôi, bao bà công chúa, bà phi, bao hàng trí thức, bao nhiêu quan tướng của triều đình cũng đã từ bỏ cõi đời trần tục đi tu.

Và ngày nay con số không nhỏ các bậc trí thức Âu Mỹ cũng đã bỏ cả cuộc sống đầy tiện nghi của xã hội dư thừa vật chất để theo hạnh nguyện của Phật. Họ có gây một căn bệnh truyền nhiễm nào và cần “ngăn chặn” không?

Khi dùng danh từ “ngăn chặn” ý ông Hòa muốn nói gì? Phải chăng ông muốn nói tới các biện pháp như: tổ chức các buổi họp báo, thành lập các diễn đàn, thành lập các nhóm đi tuyên truyền, thành lập các website… chống lại việc có gia đình mà lại xuất gia?

Khi dùng danh từ “ngăn chặn” ông mặc nhiên ám chỉ có gia đình mà bỏ đi tu là xấu, là làm tổn hại đến hạnh phúc gia đình và cấu trúc xã hội?

Bằng cả sự suy luận rốt ráo, bằng cả sự tĩnh tâm suy nghĩ đến chỗ tận cùng của sự vật, ông có dám khẳng định rằng có gia đình mà đi tu là làm tổn hại tới người khác? Phải chăng đây là nhận định hết sức vội vã?

Theo tôi, nếu quả thật ông quan tâm tới nền tảng hạnh phúc gia đình, cấu trúc an lành của xã hội, ông nên viết nhiều bài phê phán những chuyện như: Có gia đình rồi còn mèo mỡ, có gia đình mà không chịu vun xén hạnh phúc cho gia đình, có gia đình rồi mà còn nhậu nhẹt, ham mê bài bạc, không làm gương cho vợ/chồng con cái, có gia đình rồi mà không biến gia đình thành tổ ấm mà cãi cọ nhau tối ngày, có gia đình rồi mà ỷ y không thèm đến chùa nghe thầy/ sư cô giảng về đạo vợ chồng để giữ gìn hạnh phúc.

Tôi nghĩ những việc làm như vậy thiết thực và bổ ích hơn là quay sang công kích những vị có gia đình rồi mà bỏ đi xuất gia.

Thứ hai: Ô. Trịnh Trung Hòa nói rằng “Có người quan niệm rằng, cuộc đời này chỉ là cõi tạm, vĩnh cửu phải là một cuộc đời khác, là cuộc đời sau khi chết mới là quý giá, mới là của ta. Đây là một quan niệm sai lầm và không có cơ sở khoa học nào cả.”

Tôi đồng ý với ông Hòa là có một số đông quan niệm như thế, nhưng đó là giáo lý của các tôn giáo mơ một Thiên Đường ảo ảnh chứ không phải quan điểm của Phật Giáo.

Ông có bao giờ nghe nói về Niết Bàn tại thế? Có bao giờ nghe nói về tu để hưởng an tĩnh và tạo phúc duyên ngay trong kiếp này? Tu để sống hòa thuận, thân ái giữ con người và con người? Tu để cứu nhân độ thế?

Theo tôi, bất cứ ai, nếu không nghiên cứu thấu đáo, xin đừng gán ghép giáo lý của tôn giáo này cho tôn giáo khác.

Nếu bảo rằng Phật Giáo chỉ coi “cuộc đời sau khi chết mới là quý giá” thì tại sao bao nhiêu chư tăng ni lại đang bảo bọc, nuôi dưỡng các cô nhi, các cụ già cô đơn, các trẻ em khuyết tật, ngày đêm lo giảng dạy giáo lý giúp cho thanh niên thiếu nữ vững tin trong cuộc đời, xa lìa các cám dỗ hư hỏng, hiếu thảo với cha mẹ, trở thành công dân lương hảo…Tất cả những điều này đều là giúp đỡ cho đời…chứ có phục vụ cho ma quỷ trên Thiên Đường sau khi chết đâu?

Thứ ba:  Ô. Trịnh Trung Hòa lại còn khẳng định rằng “Ngoài ra, chúng ra không nên mượn bất cứ một học thuyết tôn giáo nào để chạy trốn cuộc đời thực, như thế vừa làm khổ mình, vừa làm khổ người khác.”

Bằng lý luận này Ô. Hòa mặc nhiên ám chỉ hằng triệu chư tăng/ni trên thế giới chứ không phải riêng Việt Nam đang “chạy trốn cuộc đời thực” và như thế “vừa làm khổ mình và khổ người”.

Thực ra thì Ô. Hòa có quyền quan niệm như thế trong tinh thần tự do tư tưởng vốn là nền tảng của Đạo Phật. Thế nhưng cũng theo tinh thần của Phật Giáo, mọi người cần có một cái nhìn “tròn sáng” tức các nhìn không lệch lạc, không thiên kiến và nhất là cái nhìn thật bao dung, hiểu biết. Khi đã có cái hiểu biết tròn sáng rồi (Viên Giác) thì sẽ không còn kết tội và oán trách ai mà tất cả chỉ còn lại tấm lòng khoan thứ.

Quan niệm cho rằng đi tu là chạy trốn cuộc đời phát xuất từ các nhà Nho năm xưa đã không hiểu biết thấu đáo về Đạo Phật mà lại có cái nhìn khắt khe qua câu nói ác độc “trốn việc quan đi ở chùa”.

Các nhà Nho nhập thế ra làm quan, trị nước tuy tạo ổn định xã hội nhưng cũng đã gây ra bao oan khiên, nghiệt ngã qua các luật lệ quá khắt khe như “bè chuối trôi sông”, “phu xướng phụ tùy”, ”trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”, “áo mặc sao qua khỏi đầu”, “Vua bảo chết là phải chết, nếu không chết là bất trung”, “coi thường nghề ca hát” và tự coi mình là cha mẹ dân (phụ mẫu chi dân).

Nhà Nho giúp đời cũng nhiều nhưng làm khổ đời cũng lắm trong khi đó Nhà Phật thì chưa bao giờ làm khổ đời.

Nếu Ô. Hòa có thể tìm thấy trong dòng sử Việt bất cứ một bằng cớ nào chứng tỏ Nhà Phật làm khổ người ta thì tôi sẽ giã từ Đạo Phật ngay và sống với quan niệm giống như ông.

Ngoài ra Ô. Hòa lại còn nói rằng “đi tu là làm khổ mình”. Tôi đồng ý với Ô. Hòa đi tu là khổ (khổ hạnh). Quần áo thì ba bộ, không được lưu giữ tiền bạc, không được làm giàu qua thương mại, món ăn thì kham khổ, ai chửi rủa mình cũng nhịn, không được nghe băng nhạc giải trí, thú vui, tụ họp rượu chè, ca hát và nhất là xa lánh cám dỗ xác thịt là lạc thú lớn nhất của kiếp người.

Thế nhưng bảo đi tu làm khổ mình thì tôi hoàn toàn không đồng ý. Làm sao Ô. Hòa biết hằng triệu chư tăng ni trên thế giới hiện giờ họ đang khổ, và cụ thể là các nhân vật mà nhà báo Phi Thanh nói tới, hiện giờ thì họ đang khổ lắm? Làm sao Ô. Hòa dám khẳng định như vậy?

Năm xưa nhìn con cá bơi lội dưới nước một người nói con cá sướng lắm thì Lão Tử phản đối ngay “ Ông có phải là con cá không mà ông biết?”

Ngoài ra không biết Ô. Hòa có tham dự các buổi thuyết pháp của quý Thượng Tọa Thích Chân Quang, Thích Nhật Từ không? Trong các buổi thuyết pháp này,  có bao giờ quý thượng tọa bảo Phật tử phải bỏ tất cả, hủy tất cả, hư vô hóa tất cả để sống với ảo tưởng kiếp sau?

Không, chắc chắn là không.

Tôi ở hải ngoại không có may mắn tham dự những buổi pháp thoại như vậy. Nhưng qua Video tôi thấy quý thầy đã bám sát những vấn đề thực tiễn của đời sống để khuyên răn quý Phật tử phải tu dưỡng bản thân, không ngoài mục đích trở thành những người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một công dân tốt, biết thương mến và giúp đỡ người khác để biến cuộc sống đầy khổ đau này thành Niết Bàn tại thế.

Nếu có những cái mà quý thầy khuyên hàng Phật tử nên buông bỏ đó là lòng tham, lòng ghen tị, lòng si mê, lòng ngã mạn coi thường người khác và nghĩ rằng mình là “number one”, buông bỏ bớt lòng si mê danh vọng, quyền chức…

Qua những lời giáo huấn như vậy, theo Ông Hòa, vốn là nhà trí thức, có gì gọi là làm khổ người ta không?

Mới đây nhất nhân ngày khai hội Chùa Hương nhiều ngàn Phật tử đã tới tham dự buổi Lễ Quan Âm do Thượng Tọa Thích Bảo Nghiêm chủ trì. Nhìn vào hình ảnh chúng ta thấy nét hân hoan, cung kính của chư Phật tử như thế nào. Có phải họ tới đây để chuốc lấy khổ đau không?

Hay là qua buổi lễ trang nghiêm này, chư Phật tử tìm thấy sự bình an, vững tin để ngày mai thêm can đảm lao đầu vào cuộc sống áo cơm đầy căng thẳng, bất trắc.

Sự bình an, tin tưởng là giá trị tinh thần cao nhất của bất kỳ xã hội nào nếu muốn tiến lên. Đây là điều mà chỉ chư cao tăng thạc đức mới có thể làm được, chứ còn trần tục như Ô. Hòa, như tôi, dù chúng ta có thêm vài văn bằng tiến sĩ nữa cũng không thể làm được.

Nói xa hơn nữa, các bạn Trần Hữu Trung, Nguyễn Văn Dũng và Kỹ Sư Hải, mai đây với lòng tinh tấn tu hành, giới hạnh trang nghiêm, khi các bậc cao tăng thạc đức tuổi già, có lẽ cũng sẽ đăng đàn thuyết pháp và sẽ đem lại lợi ích cho đời giống như quý thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, Thích Chân Quang, Thích Nhật Từ đang làm ngày hôm nay.

Vậy thì sự “ra đi” của ba thanh niên nói trên đâu phải uổng phí? Nhìn vào khuôn khổ hạnh phúc gia đình thì chúng ta thấy những người vợ bị thiệt thòi. Nhưng nhìn chung vào nhân quần xã hội thì biết bao người được lợi lạc.

Năm xưa một mình Công Chúa Gia Du Đà La sống trong cô đơn, sầu tủi nhưng cả nhân loại được hưởng một giáo lỳ kỳ diệu, cao thượng đã hơn 2500 năm nay.

Thứ ba: Ô. Hòa còn nói rằng “Cách lựa chọn lánh đời của những người này cho thấy họ đang u mê trong một số quan niệm sai lầm dẫn đến những hành vi sai lầm.”

Có thể nói đây là lời kết tội hết sức nặng nề, võ đoán không có cơ sở chi cả, không biết dành cho tất cả các tôn giáo hiện đang có mặt trên hành tinh này hay ám chỉ riêng Phật Giáo mà thôi?

Tôi không hiểu tại sao với cương vị trí thức và chức năng tâm lý gia chuyên giải quyết những khúc mắc tâm lý cho đời, Ô. Hòa lại có thể dùng những từ ngữ nặng nề như vậy?

U mê có nghĩa là không sáng suốt từ đó làm những việc xuẩn động có hại cho mình và cho người. Ví dụ: Thất tình tự tử chết là u mê. Thi rớt quẫn trí tự tử chết là u mê. Tham lam quá đáng để thiệt thân là u mê. Yêu cuồng yêu dại là u mê. Giặc dã nổi tứ phương, đánh tới chân thành, vẫn còn ngồi trên ngai vui vầy mới rượu non gái đẹp là u mê. Nghe lời đường mật của kẻ thù, mất cảnh giác như Thục An Dương Vương khiến mất nước là u mê.

Còn trong phạm trù tri thức, không biết gì hết, không truy cứu ngọn ngành mà kết tội bừa bãi là u mê. Tin tưởng vào những lời tiên tri, sấm truyền vu vơ, thần quyền toàn năng, toàn quyền, toàn trị là u mê.

Còn chuyện giác ngộ chân lý cứu đời rồi xuất gia mà bảo là U MÊ thì tôi sẽ cãi tới cùng. Ngoài ra cho tới bây giờ tôi chưa thấy ai, dù kẻ đó chuyên chống phá bôi lọ Phật Giáo, dám dùng danh từ U MÊ để gán cho những người xuất gia đầu Phật dù người đó có gia đình hay không có gia đình.

Có thể đây chỉ là sự biểu lộ cảm tính thương-ghét của tác giả chứ không phải là sự phân tích khách quan. Tôi nghĩ rằng trong các buổi thuyết pháp, quý thầy không bao giờ “xúi” Phật tử xuất gia cả. Mà quý thầy chỉ khuyên Phật tử nên tu tại gia và làm đầy đủ chức năng của cha, con, chồng, vợ, cốt sao cho gia đình ấm êm, hạnh phúc, xã hội bình an, đất nước an cư, lạc nghiệp.

Còn chuyện xuất gia là hi hữu, là đại giác ngộ, là cơ duyên lớn chứ không phải ai muốn cũng được. Như bản thân tôi đây, sau những sóng gió nổi trôi của cuộc đời mới nhận ra tất cả đều hư ảo cho nên đã có ý muốn xuất gia. Thế nhưng ý muốn đó bị giằng kéo bởi tình cảm cho nên tôi đã làm hai cái thăm, một “xuất gia” một “tại gia” và cầu xin chư Thiên, chư Bồ Tát chỉ bảo cho tôi.

Cuối cùng tôi bốc phải thăm “tại gia” và dĩ nhiên vẫn còn ở cương vị trần tục cho tới ngày hôm nay. Vậy thì xuất gia đâu phải chuyện dễ? Và chúng ta cũng không nên vội vã phê phán người ta.

Thứ tư: Còn nhà tâm lý tên Lưu thì cho rằng “đi tu chẳng qua là việc mơ hồ trong nhận thức về mục đích tồn tại trong cuộc sống của mỗi con người.”

Theo tôi hiểu thì đây là sự tranh luận về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Theo Ô. Lưu, ý nghĩa đích thực của cuộc đời là có vợ có chồng, xây dựng hạnh phúc lứa đôi, sinh con đẻ cái, nhà lầu xe hơi, ăn ngon mặc đẹp, danh vọng, của cải đầy kho, ở với nhau tới đầu bạn răng long và không được đi đâu hết.

Tới đây thì tôi hoàn toàn đồng ý với Ô. Lưu nhưng câu hỏi đặt ra là cuộc sống chỉ dừng lại ở đó thôi sao?

Khác với con hổ hay con sư tử chẳng hạn, bắt được con nai hay con bò, bầy sư tử, hoặc con hổ ăn uống no nê, vui sướng nằm phè ra, và ngày mai cũng lại như vậy mà không cần ý thức tới đồng loại, không cần phải thăng hoa cuộc sống gì cả.

Cái mà Ô. Lưu gọi là “mục đích tồn tại trong cuộc sống” đó có dễ dàng thực hiện và có khổ đau không? Có sự lừa lọc bội phản, có tranh chấp, có lường gạt, giết chóc, đâm chém, đè nén nhau không?

Rồi thì kẻ sinh ra thì đẹp đẽ, thông minh, gia đình quyền quý, còn kẻ sinh ra thì khuyết tật, nghèo hèn, bị bỏ rơi không nơi nương tựa. Khi khổ đau, phiền não bất hạnh nảy sinh, Ô. Lưu có lo được cho họ không? Chính quyền có thể cáng đáng hết không?

Rồi khi cha mẹ mình qua đời, mình phải làm gì để báo hiếu đây? Hay lúc đó chúng ta lại chạy tới Chùa để tìm nơi nương tựa, để tìm nguồn an ủi.

Chính do nơi phẩm hạnh của ni sư mà chúng ta tin tưởng, từ đó chúng ta giải trừ bớt phiền não, khổ đau, biết kiềm chế bớt tham vọng, biết chia xẻ với người khác, biết hy sinh chút của cải để cứu đời…như thế theo Ô. Lưu có phải là “mơ hồ trong nhận thức về mục đích tồn tại của cuộc sống không?” Xin Ô. Lưu giải thích thêm cho.

Thứ năm: Còn nhà báo Phi Thanh, thay vì thông tin trung thực, ông lại phán một câu xanh rờn “Phú quý sinh lễ nghĩa”. Thưa Ông Phi Thanh, phú quý sinh lễ nghĩa có nghĩa là trước đây quê mùa nghèo hèn, nay có chút của cải bầy đặt tổ chức tiệc sinh nhật linh đình, tập nhảy đầm, hát karoke inh ỏi làm phiền hàng xóm, đồ ăn thức uống kén chọn khen chê đủ thứ như thể mình sinh ra chốn cung vàng điện ngọc, nuôi chó đầy đàn cho chó ăn ngon còn hơn người nghèo khó…như thế gọi là phú quý sinh lễ nghĩa hay trưởng giả học làm sang.

Còn chuyện xuất gia cứu đời có ý nghĩa sâu sa của nó, dứt khoát không phải kiểu cọ hay phú quý sinh lễ nghĩa. Xin ông cẩn thận trong việc dùng chữ kẻo “bút sa gà chết”.

Kính thưa quý vị, trên đây, dù nói gì đi nữa vẫn chỉ là sự tranh luận đúng sai chứ chưa giải quyết được vấn đề. Tại Hoa Kỳ, trong một cuộc tranh luận về một chuyện gì đó, sau khi một nhà bình luận đã công kích hoặc lên án đủ điều, người điều khiển chương trình sẽ hỏi “Vậy thì phương thức giải quyết của ông như thế nào?”.

Nếu nhà bình luận không đưa ra được phương thức giải quyết thì khán giả theo dõi chương trình sẽ coi ông ta như một người phá hoại và từ đó người ta sẽ không bao giờ lắng nghe tiếng nói của ông ta nữa.

Vậy thì biện pháp giải quyết ở  đây như thế nào? Trong thâm tâm, tôi không khuyến khích những người đã có gia đình xuất gia, nhưng chắc chắn tôi không lên án hoặc bài xích họ. Trong tinh thần Từ Bi, Hỉ Xả của Đạo Phật, chúng ta có thể đưa ra những đề nghị như sau:

Thứ Nhất: Chúng ta phải hết sức cảm thông với những người vợ, bởi vì giờ phút này họ rất cô đơn, sầu tủi, chới với hụt hẫng. Họ mất đi một chỗ dựa vững chắc trong cuộc đời, thiếu vắng một người bạn đời để chia ngọt xẻ bùi, sự khát khao chăn gối vẫn còn đó, con cái thiếu đi một người cha.

Bạn bè xấu miệng có thể bàn tán rằng số bà này thế nọ, thế kia. Cha mẹ, anh chị em thiếu hiểu biết cũng có khi không lời an ủi mà còn phiền trách. Công ăn việc làm bị trở ngại hoặc dang dở.

Trong tình thế khó khăn đó, người vợ cần phải: Bình tĩnh, nghỉ ngơi, nếu là Phật tử thì nên niệm danh hiệu Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, bớt tụ họp với bạn bè để tranh những lời bình luận, phê phán vô trách nhiệm.

Tránh tiếp xúc với báo chí vì báo chí sẽ khai thác làm câu chuyện trở nên rắc rối thêm.

Không nên gieo vào đầu con cái ác cảm về người cha mà cố gắng giải thích cho con cái biết là “Bố lúc nào cũng yêu thương các con, nhưng bố có chọn lựa của bố. Một ngày nào đó bố sẽ về thăm các con.

Rồi thì thời gian là liều thuốc tiên. Qua biến cố này, các bà có thể cảm nghiệm được ngay lý vô thường của vạn vật mà tình yêu cũng nằm trong quy luật đó mà “chán ngấy” tình yêu, cương quyết ở vậy nuôi con.

Nếu thấy quá cô đơn cần tiến thêm bước nữa thì cũng chỉ là chuyện vui vẻ thường tình, không có gì phải mặc cảm hay xấu hổ.

Thứ hai: Còn về người cha, phải quán chiếu bằng tâm lượng từ bi. Phải cảm thông và thương yêu người vợ của mình.

Dù ngày nay mình đã theo Phật, dù đã dứt được luyến ái, vợ con ràng buộc nhưng giống như cọng ngó sen, dù đã đứt đoạn nhưng tơ vẫn còn vương, tức nghiệp duyên mà mình gieo không phải một sớm một chiều mà hết.

Thỉnh thoảng những lúc rảnh rỗi cũng nên viết thư về thăm hỏi vợ con, khuyến khích các con học hành, ca ngợi sự hy sinh cao cả của người vợ.

Và nếu có dịp thuận tiện nào đó cũng nên ghé thăm nhà giống như Đức Phật năm xưa về thăm lại phụ vương và Công Chúa Gia Du Đà La.

Kết Luận: Ngày nay Đạo Phật đang lan tỏa trên toàn thế giới và loài người dù hơi trễ, đã bắt đầu nhận chân được giá trị thực dụng và cao thượng của nó.

Ngoại trừ số người độc thân xuất gia, chúng ta cần phải nhận biết thêm con số những người đã có gia đình, thành đạt trong xã hội bỗng dưng ngộ đạo bỏ nhà đi tu và cần coi đó là chuyện bình thường.

Tại Hoa Kỳ, những trường hợp ngộ đạo như vậy cũng đã gây shock cho cả gia đình và nhiều khi bị gia đình từ bỏ.

Thế nhưng người “ra đi” vẫn vững tâm chấp nhận tất cả, và dù tôn giáo dòng chính ở đây không phải Phật Giáo, tôi chưa thấy lời bình luận nào cho rằng việc xuất gia như thế là “ u mê, mơ hồ trong cuộc sống, phú quý sinh lễ nghĩa và cần ngăn chặn…”.

Là nhà bình luận hướng dẫn dư luận, chúng ta cần phải đọc, tìm hiểu nhiều, cần có nhãn quan toàn cầu để không làm tổn thương đến những giá trị mà chúng ta chưa được biết tới.

Nam Mô Thường Hoan Hỉ Bồ Tát.

Đào Văn Bình (California ngày 17/2/2011)

Cước chú: Dấu (*) là những trích dẫn từ bài viết

Thông tin về ông Trịnh Trung Hòa

Ông Trịnh Trung Hoà, nguyên là một giảng viên văn của một trường đại học, có gần 30 năm nghiên cứu về Tình yêu – Hôn nhân – Gia đình. Ông là tác giả nhiều cuốn sách về gia đình, là gương mặt quen thuộc trên các chương trình truyền hình “Người xây tổ ấm”, “Chuyện chung chuyện riêng” và là một chuyên gia tư vấn nhiều kinh nghiệm của Trung tâm Tư vấn tâm lý Linh Tâm – Hà Nội, của Tổng đài 1088.

 

Sinh năm 1942 tại Hải Phòng. Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Năm 1955 quy y Tam Bảo với Hòa Thượng Hải Tràng tại Chùa Phổ Quang, Sài Gòn, được HT ban cho pháp danh là Thiện Quả. Năm 1966 tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa, Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Năm 1968 tốt nghiệp Cao Học Hành Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Phó Tỉnh Trưởng các Tỉnh Quảng Ngãi, Kiến Hoà. Sau 30/4/1975 bị giam cầm 9 năm qua các trại tù từ Nam ra Bắc. Hiện sống tại Hoa Kỳ.