Trang chủ Người thời nay Chất vấn “anh đồ thời @”

Chất vấn “anh đồ thời @”

Đưa thư pháp lên mạng


– Vì sao hoạ sỹ đưa một loại hình văn hoá cổ lên phương tiện truyền thông hiện đại là website?

– Hoạ sĩ Lê Quốc Việt: Hai năm trước tôi tham gia vào một website về thư hoạ nhưng thấy không hiệu quả và chưa thuyết phục.  








Anh Lê Quốc Việt


Vì nhiều nguyên nhân khiến web này đình trệ. Tôi đã cùng các thành viên trong nhóm Zenei Gang of Five lập ra trang web Modercalligraphy.vn vào giữa năm 2008. Web thư pháp hiện đại này nghiêng về học thuật và trọng tâm là giới thiệu tác phẩm của các thành viên trong nhóm.


Làm web để PR song hành với triển lãm rất cần thiết và luôn phải tính đến. Văn hoá giống như thẻ hương không phải ở mãi trong bao, muốn thơm thì phải đốt lên. Đó là lẽ thường.

– Vậy anh dùng website để PR cho thương hiệu tranh của Zenei Gang of Five hay là nhằm quảng bá cho thư pháp hiện đại Việt Nam?


– PR là một điều cấm kị đối với những sản phẩm kém chất lượng. Còn đối với sản phẩm tốt thì luôn cần quảng bá tốt. Bởi một lẽ, nhu cầu hưởng thụ văn hoá của phần lớn người Việt hiện nay chưa cao.


Người ta sẵn sàng bỏ ra tiền triệu để nhậu nhẹt hay tự thỏa mãn bằng một chiếc điện thoại di động nhưng chưa có mấy người bỏ tiền để hưởng thụ văn hóa.

Tôi thích không khí ngày xưa, khi ai đó đến xin chữ, chủ và khách pha trà rồi cùng ngồi trò chuyện và nhâm nhi. Thế văn hóa hơn, nhân văn hơn.

Khi các cụ ở địa phương lên xin chữ đại tự làm hoành phi câu đối, tôi thường viết công đức. Còn thư pháp Tiền Vệ thì dĩ nhiên không phải là thứ để cho bất kỳ ai một cách dễ dãi rồi.

Chúng tôi vừa là nghệ sĩ, vừa phải làm lý luận, làm khoa học và dịch thuật. Trang web này là một cách để chúng tôi giới thiệu những tư tưởng nghệ thuật và các tác phẩm của nhóm đến với mọi người. Quan trọng nhất của phần tiếng Việt này là hệ thống các bài viết, bài dịch từ tiếng Anh, tiếng Trung sang. Còn PR ư? Đương nhiên rồi.












Chữ thư pháp và triển lãm “Tôi nghe thấy như thế này”


– Triển lãm “Nhị thập bát tú” diễn ra vào năm 2006, có khá nhiều người đang băn khoăn về tên gọi?

– Dù được đặt với bất kỳ tên nào thì triển lãm thư pháp tại Văn Miếu vẫn luôn được mọi người quan tâm.


“Nhị thập bát tú” vốn là tên của hội Tao Đàn thời vua Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông cùng với 27 vị đại thần xướng họa thơ văn, ca ngợi đời thái bình thịnh trị. Trong đó vị vua anh minh này làm Tao Đàn Đại Nguyên Soái. Số lượng người trùng khít với 28 vì sao, nên ngài mới lấy tên đó.

Và triển lãm xuân 2006, với sự góp mặt của toàn bộ các thư pháp gia trẻ của miền Bắc và miền Trung cũng có một con số vừa khít với các vì sao ấy. Cái tên vừa hoài cổ lại vừa bác học ấy khá là thích hợp cho một cuộc trình diễn thư pháp – môn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam.


Cái tên ấy cũng lấp lánh giữa nhiều hàm nghĩa, vừa như một sự tiếp nối của những người trẻ tuổi đối với nền văn hiến Việt, vừa như nén nhang dâng lên tiên tổ trong buổi đầu xuân và lại vừa mang chất hoài niệm, nuối tiếc về một thuở vàng son, văn chương thấm vào từng thớ thịt từ con dân cho đến thánh đế.

Truyền thống và hiện đại 








Anh Việt tại nhà

Thế nào là thư pháp truyền thống và thế nào là thư pháp hiện đại? Có phải cứ “bê” thư pháp từ vỉa hè vào triển lãm mới là thư pháp hiện đại. Và thư pháp Tiền Vệ là thế nào?


Thư pháp truyền thống là thư pháp viết chữ Hán chữ Nôm. Nói như thế để phân biệt với thư pháp Quốc ngữ, loại thư pháp này mới chỉ có khoảng chục năm lịch sử thôi, và hiện đang dừng lại ở mức độ trang trí trên bìa báo bìa sách.

Thư pháp Hán Nôm nằm sâu trong đó là những giá trị văn hóa cổ truyền của Đông Á. Đó là cái đẹp nhân cách, của tư tưởng, cái đẹp của văn chương và khí phách con người…

Còn thư pháp hiện đại vẫn có thể lấy chất liệu từ chữ Hán chữ Nôm. Nhưng, cách thể hiện không theo những nguyên tắc cũ nữa.


Thư pháp Tiền Vệ kết hợp chủ nghĩa trừu tượng và tư tưởng Thiền vào trong hoạt động sáng tác. Đó là sự kết hợp giữa quá khứ và hiện tại, giữa phương Đông và phương Tây, giữa truyền thống với cách tân, giữa hoài niệm và sáng tạo…


Trên thực tế, chưa lần nào “thư pháp vỉa hè” được bê vào trong gallery của chúng tôi. Kể cả thư pháp truyền thống cũng vậy, bởi thư pháp truyền thống là “tô chép lại chữ của người xưa”, đó không phải là một hoạt động sáng tạo, mà các thư pháp gia thực chất hành động như những người thợ “tô chữ, kẻ biển”, có ý nghĩa như một sự phục hồi vẻ đẹp truyền thống xa xưa (theo thuật ngữ của ngành bảo tàng gọi là phục chế).


Thư pháp phải mang hơi thở cuộc sống

– Các nhà thư pháp trẻ đã thực sự làm mới thư pháp Việt Nam chưa hay đó mới chỉ là học đòi, bắt chước?

– Thư pháp phải nói được tiếng nói của cuộc sống hiện nay, đóng góp cho cuộc sống, tham gia vào quá trình điều chỉnh xã hội. Đó luôn là cái mới của nghệ thuật trong mọi thời đại.








Anh Việt đứng cùng nhóm


Không phải là bắt chước, mà là chúng tôi “học hỏi”. Chúng tôi học hỏi cái tinh thần “Tiền Vệ”, cái tinh thần luôn phải thay đổi chính bản thân mình.


Chúng tôi là những người đằm trong văn hóa cổ truyền Việt Nam và dĩ nhiên không thích a dua theo những thứ hời hợt bên ngoài. Cho nên, các bạn có thể thấy, các tác phẩm chữ Nôm của chúng tôi đều mang tính dân tộc rất cao.


Chữ Hán của người Hán, chữ Quốc Ngữ do các cha cố người Tây làm ra. Chỉ có chữ Nôm là do đích thân cha ông mình tạo ra để ghi chép lại tiếng nói của mình.


Ngoài tính dân tộc ra, các tác phẩm của chúng tôi còn mang tính hiện đại nữa; sự kết hợp với chủ nghĩa trừu tượng hay nghệ thuật đa phương tiện là một minh chứng.


Đóng góp của chúng tôi ở chỗ, đưa chữ Nôm đến với người thưởng lãm vốn lâu nay không dành cho nó một chỗ trong trí nhớ; đóng góp ở chỗ đưa thư pháp từ một hành vi hoài niệm trở thành một hoạt động nghệ thuật; tiếp nối cái đẹp quá khứ và phổ cho nó hơi thở của cuộc sống đương đại; đó không phải là “phát huy bản sắc dân tộc hay sao”? Đó không phải là xây dựng một nền văn hóa “tiên tiến” hay sao?


Làm mới cái cổ điển

– Có phải những cái gì mang tính cổ điển, trúc trắc mới làm nên được giá trị văn hoá?

– Không nên đưa hai vấn đề khác nhau vào cùng một “rọ”. Cổ điển không có nghĩa là trúc trắc. Có rất nhiều trúc trắc hoàn toàn không liên quan gì đến cổ điển. Giá trị văn hóa nằm ở chỗ vừa cổ điển lại vừa “tân cổ điển” (làm mới cái cổ điển). 
 





Hoạ sĩ: Lê Quốc Việt
– Năm sinh: 1972
– Công tác tại: Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam
– Trưởng nhóm: Thư pháp Tiền Vệ Zeinei Gang of Five
– Triển lãm ấn tượng: Tôi nghe thấy như thế này- 2008, Thư pháp “ Nhị thập bát tú” tại hội Xuân Văn Miếu Quốc Tử giám – năm 2006; triển lãm hội hoạ tại New York và Mahathan (Mỹ). Cùng rất nhiều cuộc triển lãm nhóm khác.
– Và “ ông đồ hiện đại” khác với “ông đồ truyền thống” như thế nào?


– Khái niệm “ông đồ” có lịch sử khá thú vị. “Đồ” vốn là một biến âm của chữ “trò” trong học trò. “Đồ” chỉ những người trẻ tuổi đang học chữ Nho.

Ví dụ như câu: Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ. Hay câu ca dao: man di cũng có anh đồ trạng nguyên. Cho nên, ông thày dạy các học trò chữ Nho được gọi là “thày đồ”.


Thơ Trần Tế Xương có câu “thày đồ thày đạc”, chơi chữ rất thông minh và hài hước. Nhưng, phải đến bài thơ của Vũ Đình Liên, cái chữ “ông đồ” mới xuất hiện và đi vào tâm thức của người Việt.


Nho học bị bãi bỏ, chữ Hán không được sử dụng nữa, thầy đồ thất nghiệp, đem nốt chút tài hoa ra vỉa hè để kiếm sống, cái cảnh “giấy đỏ buồn không thắm, mực đọng trong nghiên sầu” thực là buồn lắm. Kể từ đây, chữ “ông đồ” được cấp thêm một nghĩa mới, ấy là “người viết chữ kiếm tiền trên vỉa hè”.

Cho nên, “ông đồ truyền thống” mà bạn đang muốn so sánh ở đây chắc phải là “thày đồ”? Thày đồ đương nhiên là người thư pháp rất đẹp, chữ của họ còn bàng bạc khắp nơi trên khắp các di tích, danh lam, trên hoành phi câu đối hay văn bia biển gỗ.


Thư pháp họ tài hoa “nói lên khí phách của cả một đời người” như Cao Bá Quát (chữ của Nguyễn Tuân). Thư pháp với họ là một cách để dung dưỡng tinh thần, là cách để họ truyền dạy học trò đạo đức thánh hiền…

Còn chúng tôi, mặc dù cũng là những người giảng dạy chữ Hán và thư pháp trong nhiều năm; nhưng hoàn cảnh xã hội đã khác. Chúng tôi không phải là những “ông đồ” hay “anh đồ thời @” gì cả.


Trước hết, chúng tôi là những người nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam. Làm nghệ thuật trên nền tảng học thuật, trên cơ sở truyền thống, ấy là cách thức để chúng tôi làm giàu thêm cho chính bản thân mình.