Với 2 khu thánh tích Thanh Mai, Côn Sơn gắn liền với hành trạng của đức Thánh Tổ Pháp Loa và Thánh Tổ Huyền Quang, người dân Đất Việt nói chung, Tăng Ni Phật tử nói riêng tự hào về mảnh đất địa linh, nơi phát tích của nhị vị Tổ sư và nhiều vị cao tăng thạc đức tiền bối.
Các ngài đã để lại nhiều đóng góp cho đất nước và quê hương. Làm nền tảng cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam cho đến tận ngày nay – đặc trưng cho cốt tuỷ hành đạo của Phật giáo Việt Nam, luôn luôn đồng hành cùng dân tộc.
Trong không khí tưng bừng của mùa xuân Kỷ Sửu, cả nước hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, trong không khí trang nghiêm thanh tịnh, dưới ánh từ quang Chư Phật và dư âm của Chư vị Tổ sư như vang vọng đâu đây, tại khu Thánh tích Côn Sơn, UBND tỉnh Hải Dương, các sở ban ngành các cấp chính quyền, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo, Tăng Ni Phật tử Hải Dương và nhân dân cả nước long trọng tổ chức Đại lễ kỷ niệm 675 năm ngày Đệ Tam Thánh Tổ Huyền Quang viên tịch, chúng ta cùng nhau ôn lại đôi dòng về thân thế sự nghiệp của Ngài.
1. Thân thế sự nghiệp:
Đại Thánh Tổ Huyền Quang Tôn giả họ Lý, tên Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần, niên hiệu Nguyên Phong thứ IV (1254) đời vua Trần Thái Tông, chính quán: làng Vạn Ty, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc Huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh).
Thân phụ là Lý Tuệ Tổ, dòng dõi trâm anh thế phiệt, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không ra làm quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức. Nhà cha mẹ ở phía nam chùa Ngọc Hoàng.
Năm Tổ đản sinh, Thầy trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Thiền Sư Tuệ Nghĩa đêm nằm mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật hội tụ, Kim cương long Thần Hộ pháp đứng chật nứt, Phật chỉ tôn giả A Nan bảo: Ngươi thác sinh làm pháp khí cõi này.
Khi sinh ra ngài có dung nhan kỳ lạ, tướng mạo siêu phàm, ý chí xa vời, bản tính thông minh, đáng bậc “sinh nhi tri tri”, nên được cha mẹ yêu quí và chú tâm dạy các học thuật. Tổ Gia Thực Lục chép rằng :”Sư có tài của Nhan Hồi Á thánh, nên thân phụ thân mẫu đặt tên là Đạo Tái”.
Niên hiệu Bảo Phù thứ II năm Giáp Tuất (1274) đời vua Thánh Tông, ngài tròn 20 tuổi, đỗ khoa thi Hương, và năm sau (1275) đậu thủ khoa kỳ thi Hội, được cử vào viện Hàn Lâm. Làm quan trong triều 20 năm, Ngài thường phụng mệnh triều đình tiếp sứ thần phương bắc (Trung Hoa). Nhờ có tài năng ứng đối và học vấn thông thái bác lãm, Ngài tỏ ra uyên bác hơn sứ thần, khiến họ phải nể phục.
Khi chưa thi đỗ, cha mẹ có ý kén người đính hôn, nhưng gặp sự trắc trở mãi. Đến khi thi đậu thì các nhà phú quí dành nhau gả con gái cho, vua cũng gọi gả công chúa nhưng ngài đều từ chối. Vốn có con mắt của bậc siêu phàm, ngài chán ngán cảnh cao sang quyền quí, nhìn đời khác nào như là vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ; tình người ấm lạnh.
Ngài thường tháp tùng vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) nghe Đệ nhị tổ Pháp Loa giảng kinh. Từ đó ngài có ý định phát tâm xuất gia tu Đạo Giải Thoát.
2. Thời kỳ xuất gia và quá trình hành đạo:
Niên hiệu Hưng Long thứ XIII năm Ất Tỵ (1305) đời vua Anh Tông, năm ấy ngài đã 51 tuổi, với tâm nguyện thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sinh, Tổ dâng sớ lên vua cố ý từ quan, đi tu, đến ở chùa (núi) Vũ Ninh do Thiền sư Bảo Phác trụ trì, xin thế phát qui y.
Niên hiệu Hưng Long thứ XIV năm Bính Ngọ (1306), Đệ nhị tổ tôn giả Pháp Loa được lập làm giảng sư chùa Siêu Loại, Tổ liền đi theo thiền sư Bảo Phác về dự lễ này. Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông gặp lại Tổ trong hình thái tăng sĩ rất mừng, biết Huyền Quang là một văn tài, liền đề nghị Thiền sư Bảo Phác cho Tổ ở lại phụ tá.
Từ đó, Tổ tùy tòng đức Điều Ngự trong 2 năm, đến cuối năm 1308 thì đức Điều Ngự thị tịch. Trong hai năm này, phụng mệnh Điều Ngự Giác Hoàng, Ngài chuyên tâm biên soạn các sách sớ công văn Phật học.-. Điều Ngự Giác Hoàng đã ngự bút phê: “Phàm sách nào đã qua tay Huyền Quang biên soạn, hiệu khảo rồi thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa”. Tôn giả thực đáng là cây bút chủ chốt của Thiền học Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử“.
Trúc Lâm Đầu Đà từng cho phép Huyền Quang ngồi trên tòa trầm hương của mình để thuyết pháp, Điều Ngự đã ngầm xác chứng khả năng đạt đạo của Ngài.
Niên hiệu Hưng Long thứ 17(1309) Tôn giả chính thức được lập làm Trụ trì chùa Hoa Yên núi Yên Tử.
Ngày rằm tháng Giêng năm Quý Sửu, 1313 theo lời thỉnh cầu của Anh Tông Hoàng Đế, Ngài về giảng kinh Lăng Nghiêm tại chùa Báo ân. Sau đó Tôn giả về quê thăm viếng song thân. Nhân đây, Ngài cho xây dựng ngôi chùa Đại Bi tại nguyên quán.
3. Thời kỳ viên tịch:
Năm Đại Khánh thứ 4 (1317), theo sự chỉ dạy của Đức Điều Ngự, Ngài hộ trì cho đệ nhị Tổ Pháp Loa, được truyền y của Điều Ngự và tâm kệ nối tiếp làm Tổ thứ 3 của Thiền Phái trúc lâm.
Năm 1330, Tổ Pháp Loa viên tịch, Tôn giả tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo Giáo hội Trúc lâm, lúc này Ngài đã 77 tuổi. Do đa văn bác học, tinh thâm đạo lý nên học đồ bốn phương, Tăng, Ni Phật tử đến thụ giáo, học đạo số đến nghìn người.
Sau khi lập An Tâm Quốc Sư làm trụ trì chùa Hoa Yên, Tôn giả về trụ trì chùa Thanh Mai hơn 6 năm. Sau đó Ngài về Côn Sơn khai tràng thuyết pháp, tạo dựng già lam, lập toà cửu phẩm liên hoa, xây dựng và phát triển Côn Sơn trở thành Đại tùng lâm Kỳ Lân viện, đương thời Côn Sơn sánh vai Vĩnh Nghiêm, Yên Tử, Quỳnh Lâm.
Sau khi công viên quả mãn, ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất 1334, Ngài đã an nhiên thị tịch tại Côn Sơn Thánh Tích. Trụ thế 80 tuổi.
Vua Trần Minh Tông phong thuỵ Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, Đặc phong Tam giáo trạng nguyên Tự Pháp Huyền Quang Tôn giả.
4. Sự nghiệp sáng tác:
Suốt thời gian tu hành học đạo, Tôn giả thường phụng chiếu đi giảng dạy các nơi và tuyển soạn Chư Phẩm kinh, công văn… Những khoa giáo trong nhà Thiền mỗi mỗi đều phải qua Ngài biên soạn và hiệu đính. Văn bài tác phẩm Tổ để lại nổi bật lên có các tác phẩm lớn như: Ngọc Tiên tập, Chư Phẩm Kinh, Công văn tập, Phổ tuệ ngữ lục cùng rất nhiều bài thơ tiêu biểu cho văn thơ thời Lý Trần còn giá trị đến mãi ngày nay. Đặc biệt toàn bộ các khoa nghi ( Thuỷ lục chư khoa) hiện nay các Tự viện sử dụng trong khi hành lễ đều do Ngài sáng tác và chỉnh lý. Tại khoa cúng nôm chùa Hoè Nhai Hà nội vẫn lưu truyền câu ca:
…..“Triều Trần sự tích sáng ngời.
Huyền Quang trước tác là người viết ra
Các khoa cúng trong thiền gia
Bao đời sư đệ nước ta lưu truyền”….
Đệ Tam Thánh Tổ Huyền Quang – cả cuộc đời Ngài cống hiến cho sự nghiệp hộ quốc an dân và phát triển thìên phái. Với sự mẫu mực và niềm yêu đạo Ngài đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng của một nhà tu hành, một vị Tổ của một thiền phái lớn mang đậm nét dân tộc.
Đại lễ tưởng niệm 675 năm ngày đức đệ Tam thánh tổ Huyền Quang thị tịch chính là dịp để toàn thể tăng ni, Phật tử và nhân dân phát huy hơn nữa tinh thần nhập thế và tinh thần đoàn kết dân tộc.
Hôm nay, trong không khí trang nghiêm thanh tịnh, UBND tỉnh, các sở ban ngành, các cấp chính quyền, Tăng Ni Phật tử và nhân dân cả nước nói chung, GHPGVN tỉnh Hải Dương nói riêng tổ chức lễ tưởng niệm và ôn lại hành trạng của Tổ, nhằm nhắc nhở chúng ta tiếp tục sự nghiệp của Ngài, sống tốt đời, đẹp đạo theo phương châm Đạo Pháp, Dân tộc cũng chính là tiếp nối tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm, đạo Phật nhập thế.
Nguyện cùng nhau tinh tiến tu hành cho một tâm tư giải thoát sinh tử cho chính mình và mọi người. Cầu nguyện quốc thái dân an thế giới hoà bình nhân sinh an lạc. Ngưỡng mong Tam tổ thuỳ từ chứng giám.
Nam mô Côn Sơn Thiên Tư phúc Tự, Đăng Minh bảo tháp, Trúc Lâm đệ tam thánh Tổ, Huyền Quang Tôn Giả, Quốc Tứ đặc phong tam giáo trạng nguyên Đại thánh Tổ tác đại chứng minh.








