Trang chủ Văn hóa Di tích lịch sử bị làm mới

Di tích lịch sử bị làm mới

Ngôi đình …1 tuổi


Ngôi đình vừa được tu bổ sau 2 năm từ 2004 đến 2006. Giáo sư Trần Lâm Biền, Nhà nghiên cứu lịch sử -văn hoá truyền thống  gọi nó là “ngôi đình 1 tuổi”. Đó chính là đình Yên Phụ, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, là ngôi đình duy nhất ở nội thành có niên đại vào thế kỷ XVII và cũng là ngôi đình duy nhất trong hệ thống đình miền Bắc có đại bái dọc chứ không nằm xoay ngang như các ngôi đình khác.


Năm 1986, đình được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia. Tính tới thời điểm này đình đã được trùng tu 4 lần. Đình thờ Uy Linh Lang và hai em Vương Đôi, Vương Ba. Cả ba vị thần đều là con của Hoàng hậu Minh Đức đời Trần.


Ngôi đình với diện tích 3.500 mét nằm trong một quần thể đẹp ở bán đảo ven hồ, là cửa ngõ phía bắc của kinh thành Thăng Long xưa, với cửa ô Yên Hoa, nay đổi thành Yên Phụ, là nơi nổi tiếng với đào Nhật Tân, quất Nghi Tàm, hoa Tứ Tổng… Tụ hợp trong một bầu không gian trữ tình và cổ kính, từ con đường nhỏ trên dốc Yên Phụ đi lui xuống 50 mét qua cây đa đầu làng là thấy ngôi đình lấp ló.


Cửa đình nhìn ra hồ Ao Vả, phía sau dựa lưng vào phía sóng nước Tây Hồ. Tôi ngắm ngôi đình to lớn, bề thế, và ngạc nhiên quá bởi ngôi đình “mới tinh khôi” chẳng còn chút gì dù là “gợi nét cổ”.


Từ dưới lên trên, sàn nhà, mái nhà, gạch lát nền mới, những cây xà ngang, xà dọc cũng được làm mới hoàn toàn, các bức hoành phi câu đối tươi màu, đường lượn chạm hoa văn trên những đầu góc sát mái đình đều mới cả. Tôi quay sang hỏi bà Trương Thị Điệp – Trưởng tiểu ban Di tích: “Có còn gì cũ không hả bà”.


Bà thủng thẳng: “Tất cả những cột đỡ mái là mới. Mới hết cả, kể cả những cái dầm tường này. Đình to rộng như này, Nhà nước cho tiền, thợ làm mới y hệt như cũ, to rộng hệt như cũ, chỉ có chất liệu là mới thôi”. Rồi bà lại giải thích: “Ý của Bộ Văn hóa là cái nào còn thì tận dụng được đưa lên nhưng bên thầu họ không đưa cái cũ lên vì họ tiện thì làm mới.


Đấy cô vào xem, ông Biền (GS Trần Lâm Biền) bắt hạ cái mới xuống đưa cái cũ lên cho cổ kính. Cái cũ chẳng dùng được nữa thì Nhà nước mới cho 5 tỉ để làm chứ bỗng dưng ai người ta cho. Đấy cứ bảo cái cũ còn tốt. Nhưng mối mọt đầy ra đấy. Bây giờ đền, chùa nào khó khăn người ta xin, tôi cũng muốn cho ngay đi. Để đấy còn làm được gì nữa đâu”.


Bà bực bội chỉ tay ra ngoài hiên nơi đống gỗ cao ngất ngưởng. Tôi ra xem và thấy, đó là những cây gỗ, kèo cột làm bằng các loại gỗ như lim, soan, dổi, dãi dầm qua bao nắng mưa từng là bệ đỡ cho ngôi đình, nó như xương cốt, hồn phách của ngôi đình nay bị dẹp như đồ phế thải, tủi hờn, biết thân biết phận im lìm một chỗ.


Đè lên những tấm gỗ to là những thanh cột nhỏ hoa văn chạm rồng, phượng uốn lượn, tuy cũ nhưng đường nét tinh tế, uyển chuyển khác với những đầu rồng mà người thợ chạm  làm mới đường nét vụng dại, thô sơ và có phần quê kệch. Thế mà nay tất cả những đường nét thanh tú và những gì thân thương từng gắn bó với con người qua bao nhiêu thời khắc của lịch sử lại như đồ “đồng nát”.


Tôi bước trên những bậc đá màu bạc xa lạ và mới hoàn toàn dẫn vào cửa đình, những bậc đá này nó có khác gì bậc lên xuống của một công ty hay cơ quan địa phương đâu cơ chứ. Bà hỉ hả bảo: “Tất cả những thứ được thay thế bằng chất liệu gỗ đều sử dụng gỗ lim Lào nên mấy trăm năm nữa cũng chẳng phải thay gì”.


Theo bà, đình mới hoành phi phải mới, chính thế nên tôi trông 6 bức hoành phi cũ còn sót lại duy nhất trong ngôi đình có từ thời Lê được sơn lại đỏ quạch, nom “dài dại” thế nào ấy!


Chẳng hiểu đồ cũ hỏng đến thế nào mà từ cửa, cánh cổng, bức cuốn thư, những con nghê, con rồng, phượng gắn sứ đắp trên các đầu cột, trên mái đình đều được thay mới toanh, lạ lẫm, trơ lì. Vẫn thơm mùi gỗ mới  mà vô hồn, chất liệu được coi là tốt mà xa lạ.


Bà cáu kỉnh: “Có ông chuyên gia bảo đình này 400 năm tuổi mà giờ chỉ còn 1 năm tuổi. Tôi nghĩ được bao tuổi thì được. Cái cũ nó “ăn” vào cái mới, không chữa đi cái cũ tự nhiên nó đổ lăn đùng…”.


Bà nói nhiều, tai tôi ù đi. Tôi liên tưởng đến câu chuyện mà vị giáo sư ở Cục Di sản có nói: “Đừng bắt tôi gọi ông già khác bằng bố”. Câu chuyện thế này: Giáo sư coi di tích như ông bố của mình, thời gian làm cho ông cụ đau ốm, vị giáo sư đưa bố đến bác sĩ để chữa. Bác sĩ đem vứt thẳng ông bố của vị giáo sư vào sọt và đưa đến cho vị giáo sư một ông già khác na ná như thế và bảo “bố của ông đây”.


Mặc dù ông cụ khác rất khỏe mạnh, cường tráng, điều đó, cứ thử nghĩ mà xem làm sao có thể chấp nhận được. Vị giáo sư không đồng ý đã xung đột với bác sĩ: “Bố tôi là bố tôi chứ không thể thay thế bằng ông già na ná khác để bảo là bố tôi được. Cho nên cũng như di tích, những gì của nó phải là nó, chứ không thể thay thế hoàn toàn đi bảo đấy là cái đình gốc. Không ai có thể chấp nhận chuyện ấy”.


Xây cho chùa cao, cao mãi…!


Chùa Thiên Phúc ở số 94 phố Hai Bà Trưng, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm  Hà Nội cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện. Từ ngoài cửa thợ gọi nhau í ới trên dàn giáo cao tít ở bên dưới ngổn ngang, gạch đá, xi măng, sắt thép… Chùa đang được làm mới do cánh thợ đến từ Bắc Giang, Bắc Ninh đảm nhiệm.


Nghe nói dân cúng tiến rất nhiều tiền cho việc trùng tu tôn tạo, từ giờ đến cuối năm sẽ cố gắng hoàn tất công trình cho xong. Ngày xưa chùa một tầng bé con con, nay được xây mới hai tầng to cao bề thế. Tôi bước vào trong xem từ những bậc cầu thang lên tầng hai, lư đồng, lư hương, dọc hai hè những cột đá trang trí chi chít hoa văn rồng phượng…


Thượng tọa Thích Thanh Hưng – trụ trì chùa tiếp tôi trong căn phòng thờ Tổ, ông nói tâm nguyện cả đời là được xây sửa lại ngôi chùa theo ý mình, giờ nhìn thành quả tuy chưa xong nhưng đã mãn nguyện lắm. Theo ý sư thầy, ngôi chùa là di tích lịch sử đã được xếp hạng nên Nhà nước không cho làm mới, muốn sửa chữa trùng tu, tôn tạo gì thì cũng phải tuân theo cái nó đã có.


Nhưng khổ nỗi hiện nay các nhà xung quanh chùa là khách sạn, nhà hàng, văn phòng xây cao chót vót, nằm sát chùa, mà chùa thì bé nhỏ một tầng nằm lọt thỏm trong không gian đấy. Ngày nắng, ngày mưa, người thì ở trên cao, tượng Phật thì ở dưới thấp. Bao nhiêu năm qua được dân cúng tiến công đức, nhà chùa tích cóp quyết xây mới lại ngôi chùa.


Nhà nước có duyệt bản thiết kế chùa chỉ được làm cao thêm lên 1 mét, nhưng sư thầy bảo xây thêm 1 mét nữa đáng là bao. Bây giờ đất chật người đông như nêm cối, khách xa gần đến lễ cứ đứng chen chúc, chật chội trong chùa, ít nhiều mất đi vẻ tôn nghiêm, thanh quý.


Chùa được khởi công từ tháng 2/2007, đến nay xây xong nhà thờ Tổ, và gian chính thờ Phật, bên mé phải của ngôi chùa là gian thờ Mẫu chuẩn bị đổ mái. Tất cả nội thất trong hai gian đã xây xong trong chùa đều được làm chất liệu gỗ lim.


Sư thầy bảo đầu năm khi bắt đầu xây dựng giá 1m3 gỗ có 19 triệu đồng, cuối năm đấy đắt gấp đôi, bây giờ thì đắt gấp ba, vật liệu cái gì cũng tăng giá vù vù nên hiện giờ còn gian thờ Mẫu đang thi công sẽ chỉ làm bằng gỗ dổi.


Một ngôi chùa nữa trong quận Hoàn Kiếm cũng đang được phá đi xây mới hoàn toàn đó là chùa Tiên Tích tại 110 phố Lê Duẩn, phường Cửa Nam. Chùa có lịch sử ra đời vào đầu đời Vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786).


Công việc trùng tu tôn tạo đã biến ngôi chùa trước đây chỉ một tầng giờ thành hai tầng, hoàn toàn khác lạ với kiến trúc ban đầu, đang được nhóm thợ xây Nam Định và thợ chạm gỗ Hà Tây kì cục, hì hụi làm. Khi tôi đến, sư trụ trì Thích Đàm Lan đi vắng, việc trông nom chùa, đôn đốc cánh thợ xây giao cả cho anh Châu Văn Thứ trông nom.


Anh Thứ cho biết, lễ khởi công xây dựng chùa từ tháng 2/2007 cứ tiến độ này cuối năm sẽ khánh thành ban Tam Bảo. Kinh phí xây dựng chùa do dân cúng tiến ngót nghét 6 tỉ đồng, nên chùa không cần Nhà nước hỗ trợ kinh phí.


Anh sung sướng nói: “Cửa ra vào ngoài cổng bằng gỗ lim giá 180 triệu, tất cả nội thất trong chùa đều làm tất bằng gỗ lim. Tiền xây dựng chùa dân đóng góp, mọi người đều vui vẻ cả, ai ai cũng thích làm to mới, bề thế”.


Tôi nhận thấy, cũng giống như những di tích được làm mới khác, chùa Tiên Tích không ngoại lệ chạm khắc quá tràn lan, cầu kỳ, rườm rà, mất đi vẻ thanh thoát cần có của chốn cửa thiền tâm tịnh. Thật choáng ngợp vì đâu đâu trong chùa cũng thấy những tấm gỗ dày cộp, kê như mắc cửi, trông giống một nơi trưng bầy hàng đồ mỹ nghệ.


Tuy diện tích cơi nới dài rộng hơn nhưng bố cục bài trí thiếu hài hòa còn nặng về hình thức ,phô trương không cần thiết ít nhiều làm cho người đến chùa không mang lại cảm giác yên bình, thư thái…


Giáo sư Trần Lâm Biền nói: “Di sản là tài sản của tổ tiên để lại nhưng nhiều khi người nhà chùa lầm tưởng mình là chủ sở hữu của ngôi chùa. Họ chỉ là người đến đấy để tu hành, trách nhiệm cai quản ngôi chùa đó giữ sao cho sạch sẽ, giữ sao cho nơi đó là một điểm sáng văn hóa để giáo dục cho quần chúng dùng đạo pháp để đẹp đời.


Sự lầm tưởng vai trò làm chủ là một cái cơ bản nặng nề nhất làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc của di sản văn hóa này”.







Phóng viên (PV): Thưa GS, có phải việc trùng tu, tôn tạo bất cứ di tích lịch sử nào cũng là thực sự cần thiết hay không? Và khi thực hiện công việc này, dứt khoát phải giữ nguyên nét kiến trúc truyền thống  như ban đầu hay là có thể cách tân hoặc cải biến?


GS Trần Lâm Biền: Trước hết, chúng ta phải hiểu ý nghĩa của trùng tu là làm đúng như kiến trúc nghệ thuật cũ, thì đó là việc không thể thực hiện được ở tuyệt đại đa số các di tích. Chính vì thế, nên trong quá khứ đã không hề có việc trùng tu và điều này càng không có trong hiện tại.


Chúng ta chỉ tu bổ các di tích lịch sử, cố gắng để giữ được cái “thần” tức là tinh thần văn hóa, yếu tố văn hóa. Hiện nay, mỗi công trình văn hóa tu bổ được 70%  như gốc cũ đã là một sự may mắn lắm rồi.


Nước ta đang có hiện tượng tu sửa tràn lan, chính điều này đã phá đi không biết bao nhiêu di tích văn hóa. Mỗi lần phá đi xây lại thì dấu ấn về văn hóa, lịch sử, xã hội bị bào mòn khiến cho cái nhìn của con người về di sản văn hóa mất đi sự chính xác.


Di sản văn hóa, ngoài giá trị nghệ thuật hay tín ngưỡng thì đối với dân tộc ta, cái căn bản, cốt lõi là phản ánh các vấn đề văn hóa, tinh thần, lịch sử, xã hội. Vì vậy, tu bổ không đúng, xóa bỏ tùy tiện các dấu tích cũ sẽ dẫn đến nhận định sai lầm về các thời kỳ xã hội trước.


Đáng tiếc thay, điều đó lại rất hay xảy ra trong giai đoạn hiện nay,  trong nền kinh tế thị trường, khi mà đã và đang “đẻ” ra rất nhiều công ty gắn với nghề tu bổ di tích. Tôi không hiểu tại sao lại có chuyện đấu thầu trong việc tu bổ di tích giữa các công ty.


Thực chất, hầu hết những người tham gia đấu thầu rất thiếu hiểu biết về di tích, nhận thức về tu bổ còn thấp và người ta lấy lợi nhuận cao hơn giá trị văn hóa. Một số người xây dựng đề án di tích có tính chất chung chung và nhiều khi lại “tố” lên không đúng với sự thực do không nắm về chuyên môn, lịch sử văn hóa, giá trị nghệ thuật di tích, không hiểu tâm lý của dân tộc.


Họ chỉ cố gắng làm sao thay thế được càng nhiều thì lời lãi nhiều hơn. Nhưng họ không biết rằng chính tâm lý dân tộc quyết định những đường nét của nghệ thuật, cho nên tất cả những dấu tích cũ, là hồn cốt, là bộ mặt của di tích.


Thay thế hoàn toàn những cái cũ mà vẫn bảo đấy là di tích gốc thì theo tôi, nhìn từ góc độ văn hóa, đấy là “kẻ phản động” về bản sắc văn hóa dân tộc, “phản động” trong vấn đề di sản văn hóa truyền thống. Tôi chưa nói đến việc đó có thể coi như phản bội Tổ quốc, vì anh đã đặt quyền lợi cá nhân cao hơn quyền lợi dân tộc, thì tức là anh đã phản bội cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Đó là hành động tội lỗi.


PV:  Trong việc tu sửa các di tích lịch sử, ở một số công trình kiến trúc cổ truyền, nghệ thuật chạm khắc đã bị mất bản sắc văn hóa vốn có của công trình, thậm chí còn mang tính tùy tiện, thực dụng. Là nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống, ông có lo lắng không?


GS Trần Lâm Biền: Trong việc tu bổ di tích không có chuẩn mực nhất định mà trong đó kiến trúc sư luôn đóng vai trò mấu chốt. Chúng tôi đã nói với rất nhiều kiến trúc sư của ngành rằng: “Đối với di sản văn hóa Việt Nam, tất cả kết cấu của kiến trúc truyền thống, anh nào thông minh nhưng hơi lười biếng thì học trong một tuần, anh nào tối dạ một chút thì cùng lắm học một tháng. Nhưng văn hóa kiến trúc thì học cả đời không hết”.


Đảm bảo rằng gần như 100% những công ty tu bổ di tích cổ truyền không hiểu về văn hóa kiến trúc, nếu có thì gần đây hiểu được một chút, do đọc sách nghiên cứu một cách vội vã, qua quýt có tính chất đối phó, chứ chưa hẳn xem để ngẫm, họ không hiểu nổi những ý sâu xa mà người viết đã gửi gắm trong sách. Bởi thế tu bổ di tích mà không hiểu ý nghĩa của hình khối mỹ thuật trong đó nên đã làm sai, làm hỏng đi.


Tôi lấy ví dụ, di tích đình Yên Phụ, được tu sửa cách đây 2 năm là ngôi đình duy nhất trong nội thành Hà Nội có niên đại vào thế kỷ XVII. Trong kiến trúc di tích lịch sử giữa giá trị tình cảm con người và tôn giáo luôn hợp thành khối đồng nhất, nhưng những người tiến hành tu sửa đình không biết được điều đó.


Trong bản trang trí cũ của ngôi đình con rồng có đao đi bên cạnh. Biểu tượng con rồng như bầu trời mây đọng nước để đem nguồn nước xuống cho muôn loài sinh sôi. Qua hình tượng rồng đao hòa quyện người xưa như muốn nhắc nhở ông thần trong di tích, hãy nổi sấm lên!


Tức cái đao rồng gọi mây về (là con rồng) cho mưa xuống để dân làng có nước cày cấy. Song rõ ràng là những người tu sửa đình không hiểu được ý nghĩa đó, nên người ta làm mới bằng cách đắp con rồng lên, nhưng cái đao lại vướng, thế là họ cắt cụt luôn cái đao đi.


Chẳng nói đâu xa, ngay ở chùa Kim Liên nằm trên bán đảo Tây Hồ, là chùa duy nhất ở nước ta có sàn ở tầng hai, tượng trưng cho tầng trời, trên sàn còn để tượng thờ. Dầm sàn chạm đầu rồng là của thời Tây Sơn. Thế nhưng, trong một lần tu bổ, người ta tùy tiện bỏ tầng hai, thế là chùa mất đi một tầng trời.


Rồi nữa, làng Việt cổ Đường Lâm có đình Mông Phụ. Khi tu sửa, một nhóm thợ dỡ con hổ phù là đề tài trang trí đơn giản chủ đạo của bộ tía. Có rất nhiều chỗ đóng được đinh vào để giữ hình khỏi ập xuống nhưng người thợ lại đóng vào đúng mũi con hổ phù!


Ý thức như vậy là quá kém, nhưng họ vẫn được nhận vào để tu bổ đình. Hiện nay, trong việc tu bổ các di tích, hầu hết  các kiến trúc sư hay các công ty tu bổ đều không biết yêu quý giá trị của di sản nên đã làm biến dạng di tích.


Tai hại là nhiều khi sai mà không biết là sai, mình nói cho họ biết, thì họ cãi. Và cãi trên tính chất ý thức của họ là tu sửa chứ không phải là tu bổ công trình văn hóa.


 Những người hiểu biết về nghệ thuật đến đình Thụy Phiêu ở huyện Ba Vì là ngôi đình cổ nhất nước ta hiện nay, niên đại tạm chấp nhận được là năm 1531 cảm thấy xót lắm. Những hình khối mỹ thuật ở trên mảng chạm đang là “tiếng” Việt Nam êm ái, tu bổ xong nó không biết trở thành “tiếng” của nước nào.


Tây không ra Tây, Tàu không phải Tàu, và càng không phải Việt Nam. Một cái đầu dư bên này của thời Mạc nhưng cái đầu dư bên này làm theo đầu dư bên kia. Người không biết về nghệ thuật cũng thấy sai rành rành. Như bên này là hình tượng cô gái mỹ miều còn bên này là thứ quái thai.


Rõ ràng để mẫu bên cạnh mà thợ cũng không tạc được. Nhưng đằng sau nó vì sao những người này vẫn được làm thì tôi không thể hiểu nổi.  Như những mảng chạm con voi đang bay trong hệ thống vân xoắn, người xưa bảo đấy là yếu tố cầu nước, cầu mưa mà con voi là biểu tượng của nước, của mưa. Nay họ chạm sai, ý nghĩa gốc khác hẳn đi.


Ngay cả con hươu trong vân xoắn lớn cả một hợp thể gắn với ánh sáng, gắn với nguồn sinh lực hay gắn nguồn phát sáng của bầu trời nhưng đến khi tu bổ xong, chẳng ai có thể biết nó là cái gì nữa. Tức là người ta tân thời hóa bộ mặt của tổ tiên, dễ thấy nhất là ở những mảng chạm, động tới di tích nào cũng có thể nhìn ra được.


Người đi lễ đứng trong di tích thì phải đứng trong dòng chảy của thông tam giới, mà bộ mái là biểu tượng cho bầu trời, những con vật thiêng gắn với bầu trời như rồng, phượng luôn được chạm khắc ở trên mái, trên các xà cột. Còn tầng giữa là nơi con người của thế gian giao thoa hòa hợp, và là nơi để thần linh và con người tiếp cận.


Tầng thứ ba nằm ở bên dưới, đó là tầng của thế giới âm ty. Ngày xưa các cụ làm nhà có lát cũng chỉ lát sân, chứ không bao giờ lát nền nhà, các cụ đều quan niệm như vậy là âm dương cách trở, vì vậy mọi di tích không bao giờ lát nền nhà cả. Nếu có lát người ta phải lát bằng gạch có thể hút được ẩm.


Và tối kị lát gầm bàn thờ, để cho khí âm và khí dương hòa hợp, thần linh mới có uy lực để ban phát ân chuẩn cho chúng sinh. Nay thì chùa nào cũng gần như lát kín mọi chỗ, thậm chí, họ lát bằng gạch men. Nhưng như vậy là phá hoại văn hóa truyền thống!


PV: Nhiều di tích lịch sử hiện được cơi nới xây to, vì người ta cho rằng, di tích ngày xưa hợp với bối cảnh lịch sử lúc đó, khi nước ta chỉ có mấy triệu dân, người Việt lúc ấy lại tầm vóc bé, còn bây giờ chúng ta tầm vóc to lớn, dân số lại hơn 80 triệu người.


Vậy nên theo những người này di tích lịch sử cũng cần phải được làm lại theo kiểu mới, chứ không nên rập khuôn nguyên mẫu và thiếu tính sáng tạo. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?


GS Trần Lâm Biền: Xưa kia, ngôi chùa như là nơi đi về chính nhà mình, ấm cúng, an bình. Nay người ta đến cảm thấy lạc lõng, tâm hồn như bị teo đi, nó đi ra ngoài bản sắc của dân tộc như chùa Tứ Kỳ ở Văn Điển. Con người cảm thấy ngôi chùa lớn, và quá xa lạ với tâm hồn người Việt.


Nếu chúng ta đi sâu vào tâm hồn dân tộc thì sẽ thấy rằng, làm to, làm lớn như thế cực kỳ sai lầm, không đúng với văn hóa truyền thống của người Việt, đường nét uyển chuyển mềm mại, trữ tình, ngôi nhà hòa vào không gian vũ trụ đồng nhất để cùng tồn tại.


Trước đây một số học giả Pháp bảo văn hóa Việt Nam là “cái đuôi” của văn hóa Trung Hoa, nhưng đến năm 1954 thậm chí bây giờ những người nghiên cứu di sản dân tộc như chúng  tôi đang phấn đấu để thoát khỏi suy nghĩ đó.


Nhưng hiện tượng cố gắng làm to, làm lớn, đã đi vượt ra ngoài không gian tâm hồn của người Việt. Ví dụ như chùa Bái Đính ở Hoa Lư, Ninh Bình, một số chùa làm lớn khác ở phía Nam đã chứng minh ngược lại ý thức bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc bằng cách chùa toàn tượng theo kiểu Trung Hoa.


Có một ngôi chùa  dự kiến  làm 500 vị La Hán. La hán không phải của Việt. Việt không thờ La Hán, cái mà ta gọi là Thập bát La Hán thực ra là các tổ truyền đăng. Riêng bày biện là Việt khác Trung Hoa, Trung Hoa ở phương bắc, bắc là âm, ta là phương nam, nam là dương.


Vậy thì âm dương đã khác nhau, bắc nam khác nhau, sao ta phải theo đuôi họ, tự đánh mất mình. Còn có một ngôi đền làm rất lớn khác là của tư nhân ở một tỉnh phía Nam, thờ cả anh hùng dân tộc, cả Phật và thờ cả… dòng họ của người bỏ tiền ra xây…


Nhưng bi kịch là tất cả những điều “phi văn hóa” đó lại được nhiều cán bộ văn hóa khen lấy khen để. Điều đó đi ngược lại hoặc ít nhất đi chệch đường ray văn hóa truyền thống dân tộc cho đến bây giờ và mai sau.


Cứ làm không suy nghĩ chỉ khoe mẽ về sự to lớn thì chắc chắn văn hóa Việt Nam sẽ đi khác đi, và chúng tôi vẫn nghĩ rằng muốn bước vào tương lai một cách vững chắc thì bắt buộc phải ngoái nhìn quá khứ bởi quá khứ khẳng định anh là ai. Xác định được mình thì anh không bao giờ sai lầm về phương hướng.


PV: Thưa GS, làm sao để cân đối giữa ý thích của người dân trong việc xây sửa di tích với sự bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống của các nhà khoa học?


GS Trần Lâm Biền: Đúng là người dân bao giờ cũng thích làm mới. Và chính nhận thức chưa cao sẽ dẫn đến làm bệ đỡ cho tu bổ sai lầm. Nhiều anh tu bổ di tích, lắm lúc bảo “chúng tôi làm theo ý dân” để biện minh cho sai trái của mình.


Anh em chúng tôi ở Cục Di sản nói thẳng thừng rằng, bây giờ bất kể di tích đã được Nhà nước xếp hạng cấp nào nhưng khi được thống nhất tu bổ theo đề án đã duyệt thì kể từ lúc dỡ một hòn ngói ra hạ giải, mọi sự ứng xử với di tích ấy là trong phạm vi Luật Di sản, không còn ý kiến của ai tham gia vào được nữa.


Chỉ trừ khi người tu bổ di tích thấy gặp khó khăn, không giải quyết được đúng như dự án thì họ sẽ đề đạt ý kiến lên cơ quan thẩm quyền để cùng giải quyết. Chỉ có cách ấy thì các di sản văn hóa mới đảm bảo được tính tu bổ tương đối chính xác, chứ nghe mỗi người một câu thì hoàn toàn di tích sẽ nát bét, bởi tổ tiên chúng ta đã nói rằng “lắm thầy thối ma”.


PV: Xin cảm ơn giáo sư đã có cuộc trao đổi này.