Trang chủ Nghiên cứu Phật giáo và Khoa học Freud và Phật giáo sự tương đồng đến kinh ngạc

Freud và Phật giáo sự tương đồng đến kinh ngạc

104

Lần thứ hai là Darwin với học thuyết tiến hoá. Khi ai cũng tin rằng con người là sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, của Thượng đế, không có một mối quan hệ nào với động vật cấp thấp thì Darwin bảo không phải vậy, con người từ khỉ mà thành, chính xác hơn là một nhánh nào đó của động vật linh trưởng mà thành.


Và lần thứ ba là Freud với phân tâm học. Khi ai cũng chắc chắc như đinh đóng cột rằng ý thức của con người (trong đó có trí tuệ, nhận thức và sự hiểu biết) là thiêng liêng và mạnh mẽ, nó quyết định mọi hành vi của con người, là điểm khác biệt giữa người và động vật khác, thế nhưng Freud, với sự phân tích tâm lý của con người một cách xuất sắc và trung thực của mình, đã bảo: Không phải vậy! Vô thức và bản năng, những thứ rất gần, nếu không nói là giống hệt với động vật, mới là những điều quyết định rất nhiều đến hành vi của con người! Có thể ví von để dễ hình dung: ý thức như cái con rối, mà vô thức và bản năng là kẻ đứng sau giật dây, điều khiển mọi chuyện. Điều này thì “khó chịu” chẳng khác gì khi nghe Darwin bảo con người ta vốn là từ con khỉ mà thành. Nó khó chịu đến mức con người thường nguỵ tạo nên những cái vỏ, cái áo mỹ miều để khoác lên cái động lực rất bản năng của mình. Mặc cảm Oedip, cái mặc cảm của kẻ giết cha và lấy mẹ của con người thời bầy đàn kéo dài hàng triệu năm (cần nhớ rằng con người văn minh mới chỉ có chừng 20.000 năm, nếu không nói là chỉ 10.000 năm trở lại đây) đến giờ vẫn còn ám ảnh đâu đó trong vô thức con người và tạo nên những hành vi, căn bệnh tâm thần mà chỉ có nhờ Freud với sự phân tâm mới có thể chữa hết được. Rồi bản năng tính dục, chuyện mà ai cũng xấu hổ khi nói đến, thì Freud lại bảo rằng chính nó đã khiến cái thế giới này hình thành, nó khiến cái xã hội con người này cứ như sôi lên sùng sục suốt mấy ngàn năm qua. Bao cuộc chiến tranh, bảo kẻ tội đồ, bao thánh nhân, bao triết gia, bao nhà thơ, bao của cải… là cũng từ cái nguồn năng lượng vĩnh viễn không bao giờ chịu vơi cạn ấy mà hình thành. Đè nén nó là như lấy giấy mà gói lửa. Không tin ư? Bạn hãy cứ hỏi con mắt bạn khắc biết: tại sao cái bóng hồng giữa đám đông kia lại hút ánh nhìn của bạn đến vậy?






Rồi bản năng sống, bản năng sinh tồn, bản năng chết, bản năng sợ hãi, bản năng giận dữ nữa, ý thức chẳng bao giờ điều khiển được nó. Tại sao nói trước đám đông tim bạn cứ đập liên hồi? Tại sao con người lại sợ rắn, đỉa, chuột, gián? Tại sao đèn đỏ ở ngã tư lại làm ta cồn cào bất an? Và tại sao con người lại không thể kiềm chế được sự giận dữ, nhiều khi qua rồi mới thấy là vô cớ và kỳ cục? Vâng, đời sống tinh thần của con người, mặc dù đã được Freud phân tích khá kỹ từ gần 100 năm trước, cho đến nay vẫn còn ẩn chứa rất nhiều bí ẩn, không phải là không nhìn thấy mà giống như là con người đã không chịu nhìn nhận, mặc dù ai cũng có thể nhìn thấy.


Và thật kỳ lạ, những điều Freud phân tích và khám phá ở trên gần như trùng khớp với những khái niệm cơ bản nhất của Phật giáo, chỉ có điều tất cả đều được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ khác.


Này nhé, bản năng thì tăm tối và hình thành từ thuở con người còn là những động vật bầy đàn hú hét trong rừng sâu. Nhà Phật cũng có khái niệm Vô minh hình thành từ Vô thuỷ, thường được gọi chung thành Vô thuỷ Vô minh. Bấy lâu nay, nhiều người thường hiểu vô minh là sự không hiểu biết các lời dạy của Phật. Thế nhưng hiểu rằng Vô minh chính là bản năng thì ta có thể hiểu nhiều khái niệm mà lâu nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau trong nhà Phật. Làm chủ sanh tử há không phải là làm chủ bản năng đấy sao? Các tổ Thiền tông cũng thường bảo, phá tan được cái hầm sâu vô thuỷ vô minh ấy thì kiến tánh thành Phật! Có một điều cần chú ý: nhà Phật hay nói lìa tri kiến, sở tri chướng, tức những hiểu biết, kiến thức, nhận thức luôn là những trở ngại trên con đường đạt đến sự giác ngộ. Nếu hiểu bản năng chính là vô minh thì ta sẽ hiểu một tầng nghĩa khác của nó, đó chính là sự hiểu biết không bao giờ, và sẽ không bao giờ, chế ngự được bản năng. Chỉ có sự không biết, thiền định ở mức độ “vô nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý” (không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – Bát Nhã Tâm Kinh); hoặc “tâm như tường bích” (tường đá) (Bồ Đề Đạt Ma); hoặc Vô Sở trụ (kinh Kim Cang) tức ở cái chỗ mà tâm con người ta không đứng, không dựa trên bất cứ điều gì cả, tức chỗ không biết cái gì cả, không ý thức cái gì cả, thì hầm sâu vô minh sẽ bị phá, đó là lúc mà Bản Năng sẽ không còn “quấy rầy” con người nữa, con người thực sự mất đi phần con để trở thành một NGƯỜI đúng nghĩa.


Đó là nói phần khác nhau trong giải quyết vấn đề, giữa Freud và Phật giáo, sau khi nhìn thấy sự tác động mạnh mẽ của bản năng đến đời sống tinh thần của con người. Nếu bỏ qua cái giả thuyết là bản năng có thể soi sáng, tức phá tan cái hầm sâu vô thuỷ vô minh, kiến tánh thành Phật, thì vẫn còn rất nhiều điều giống nhau một cách kỳ lạ giữa Freud và Phật giáo.


Này nhé, nhà Phật không ai không biết đến các khái niệm vạn pháp do tâm tạo và tu là chuyển nghiệp. Freud cũng nói đến rất nhiều khái niệm số phận của mỗi người là do chính người đó, qua sự điều khiển của vô thức mà hình thành nên số phận. Có người sống với vợ nào rồi cũng ly dị, chơi với bạn nào rồi cũng bị bạn phản. Freud đã phân tích khá kỹ rằng chính vô thức đã thôi thúc ở bên trong để cuộc ly dị xảy ra, cuộc phản bội của bạn hình thành thì anh ta mới thoả mãn mà không hề tự biết điều đó. Thì ra ta đi đâu cũng gặp người khó tính, người ích kỷ, người thủ đoạn là do chính bởi ta tạo nên họ chứ không phải họ có sẵn đó và ta chỉ gặp. Những khái niệm này là vô cùng gần với Phật giáo, số phận của ta là do chính nhân duyên nghiệp chướng ta tạo nên mà thành. Nhà Phật kể một câu chuyện rất hay để minh hoạ: Có cô con dâu không chịu nổi bà mẹ chồng khó tính, xin thầy cho loại thuốc nào đó cho bà chết đi. Vị thầy bảo, để cô không phải bị truy tố, ông sẽ cho một loại thuốc uống hằng ngày mà bà mẹ chồng sẽ chết sau một năm không để lại dấu vết, chỉ với một điều kiện: đừng làm cho bà giận, bà chỉ cần giận một lần thôi là thuốc sẽ không hiệu quả. Cô con dâu cho bà uống thuốc và cố không làm bà giận, mà khi con người ta không giận thì chỉ có vui. Sau một năm, cô đến gặp thầy và khóc xin cho mẹ chồng đừng chết nữa, vì cô và bà mẹ chồng rất yêu mến nhau. Vị thầy cười bảo, thuốc đó là củ sâm, chỉ có tốt chứ không độc, và báo cho cô biết mọi chuyện đã thay đổi kể từ khi chính cô thay đổi cách sống, thay đổi thái độ của cô với bà mẹ chồng.


Tu là chuyển nghiệp, tức sửa chữa mình thì sẽ thay đổi số phận. Đi đến cùng của khái niệm này ta sẽ thấy quả thật là “Vạn pháp do tâm tạo” thật. Thế giới này xét cho cùng là thế giới ở trong ta, thế giới ta nhận thức. Thế giới được ta quan sát là quan trọng hơn rất nhiều cái thế giới thực mà con người khó có thể nắm bắt. Cái tâm ta đối diện với mặt trăng quan trọng hơn rất nhiều bản thân cái mặt trăng khô khốc bụi đất. Thượng đế có thật hay không – không quan trọng bằng thái độ của chúng ta khi đối diện với một Thượng đế thật hoặc không có một Thượng đế nào cả.


Có nghĩa là, với Phật giáo, thì cái tâm của mình là một thế giới cần được khám phá hơn bất cứ điều gì khác. Các tầng mức giác ngộ, các tầng thánh quả, chính là các tầng mức hiểu biết về cái tâm của mình.


Và Freud cũng vậy, cả sự nghiệp của ông là khám phá những góc khuất sâu kín, tối tăm thậm chí bỉ ổi, thối tha nhất mà không ai dám thừa nhận trong tâm hồn con người. Kéo con người đừng nhìn ra ngoài nữa mà hãy nhìn vào cái động lực trên đó mỗi hành vi hình thành là mục đích của cả Freud và Phật giáo. Quán nhân duyên, biết mỗi sự việc xảy ra (quả) là từ cái nguyên nhân (nhân) nào đưa đến là trí tuệ cao nhất mà mỗi Phật tử đều mưu cầu.


Với công cụ phân tâm học do Freud lập nên, có lẽ sẽ là điều kiện tốt nhất để có thể nhận ra những động cơ sâu kín nhất trong mình, vẫn thường thôi thúc mình hành động thế này chứ không phải thế khác, tạo nên quả này chứ không phải quả khác. Để rồi từ đó hình thành nên một con người thực sự thông tuệ, không còn bị những bản năng tăm tối hoặc vô thức vớ vẩn nào đó điều khiển nữa. Đó chẳng phải là mục đích cao nhất mà nhân loại vẫn mưu cầu từ hàng chục ngàn năm qua đấy sao?