Mở đầu bài Pháp thoại, Thượng tọa khái quát cho thấy một người sau khi mất không phải là chấm dứt mà vẫn tồn tại trong vũ trụ dưới nhiều hình thức theo nghiệp duyên của mình. Ngoài ra còn đề cập vấn đề liên quan đến các chúng sinh chưa đi đầu thai, vẫn còn tồn tại ở thế giới siêu hình. Theo quan điểm của Thượng tọa, việc cầu siêu là cần thiết, rất hay nhưng phải làm đúng cách mới mang lại lợi lạc cho cả người còn đang sống và người đã mất.
Khi chưa đầu thai tạm chia làm 2 hạng chúng sinh:
– Một hạng người có phúc vì lúc sống ở đời họ có công, họ chưa lên cõi trời hẳn, lúc chết có lâu đài để ở, có người hầu kẻ hạ. Đó là các vị thần, có uy quyền, ta không cần cầu siêu.
– Hạng thứ hai là các chúng sinh thiếu phúc, không đọa địa ngục, không đọa súc sinh, không đủ phúc để tái sinh, không có chỗ ở rõ rệt mà vất vưởng nơi này nơi kia. Những người này rất cần cầu siêu. Đa phần các anh chiến sĩ thuộc hạng này. Ta phải cầu siêu giúp cho các anh có nơi ở mới, rồi sẽ đi đầu thai. Những người lính giặc cũng vậy, khi đi xâm chiếm nước ta, lúc chết bỏ thây lại, không đủ phúc để trở về quê hương, họ ở lại đây vất vưởng nên cũng cần cầu siêu để chuyển tâm của họ.
Số chúng sinh trong cõi âm rất nhiều. Nếu ta để họ đói khổ, đọa lạc sẽ gây nhiều bất an cho cõi dương. Họ làm cho từng gia đình xô xát, xung đột, nhiều chuyện xui xẻo xảy ra, cõi dương không yên ổn được.
Nghi thức cầu siêu, tụng kinh, cúng thí thực là nhằm cho ÂM SIÊU DƯƠNG THỚI. Lời cầu siêu là lời gửi gắm cầu xin.
Chúng ta xin Phật dẫn dắt linh hồn người đã mất. Lễ cầu siêu có tác dụng tốt bởi 3 lý do:
1. Người đứng ra làm lễ phải là người có đức. Tiếng nói của người đó được Thần Thánh lắng nghe. Chư Bồ Tát, Chư Thiên thường hay theo dõi hộ trì những người này.
2. Lời tụng phải có đạo lý sâu xa, dễ hiểu cho cả người sống và người chết.
3. Cầu siêu phải lâu dài, không phải chỉ 1-2 lần mà được.
Trong cõi âm nhiều người bị thiếu thốn. Nếu muốn cho người thân của ta có đầy đủ thì ta phải làm phúc (mang gạo, quần áo làm từ thiện, cúng chùa) rồi hồi hướng công đức cho họ. Đừng đốt hàng mã, vừa tốn tiền, không kết quả. Nên cúng thí thực cho họ. Người mất cần ăn, họ hưởng được nhờ việc cúng của ta. Khi sống nếu họ làm nhiều việc phúc thì khi chết họ được đầy đủ. Nếu không làm phúc thì khi chết bị thiếu thốn, cần sự cúng thí thực mới có ăn.
Một số trường hợp liên quan đến các vong hồn như có nhiều ngôi nhà có ma, không ai ở được, phải bỏ không. Ta không nên dùng bùa trấn ếm gì cả. Chỉ cúng thí thực, cầu siêu mỗi ngày cho đến ngày đủ nhân duyên ma sẽ đi đầu thai.
Có trường hợp vong nhập vào người, vong theo quấy sai khiến làm nhiều việc khủng khiếp do có tiếng nói bên tai, bị thấy ảo giác. Vong nhập là nghiệp của ta, do có duyên nợ nên mới nhập vào. Ta trả nợ một cách từ tốn bằng việc cúng thí thực, cầu siêu cho vong được siêu độ theo Phật. Cứ kiên trì để giải oan trái kiếp xưa. Người bị vong nhập thì phải ráng tu tập, tạo uy lực ma không dám nhập.
Có những vật dụng ta mua mang theo sự xui xẻo. Đó là đồ vật của người đã chết. Họ bị cướp, giết để lấy đồ đó. Họ đi theo các đồ vật vì chấp vào nó. Ta cúng thí thực cầu siêu cho vong đó và nói « Phật dạy không có gì là ta, không có gì là của ta. Thân này còn vô thường, huống hồ là đồ vật ngoài thân. Hãy tu theo Phật để được giác ngộ ».
Những vị công thần danh tướng sau khi mất vẫn còn uy lực, có người hầu kẻ hạ và bảo vệ đất nước của họ. Ta phải thờ phụng cúng bái họ, phải cúng cơm đàng hoàng. Ta phải lập đền thờ những vị danh tướng có đức độ để họ tu hành, gia hộ, bảo vệ đất nước này.
Đối với các chiến sĩ khi cầu siêu ta cầu nguyện trên chư Phật tiếp độ các anh, giáo hóa các anh, mong các anh biết tu theo Phật Pháp, rải lòng thương yêu chúng sinh, hướng về giác ngộ giải thoát và nhớ lúc nào cũng phù hộ cho những người cán bộ chiến sĩ đang giữ gìn đất nước này được mọi điều thắng lợi, thành công. Người sống nhờ người đã mất ủng hộ mình.
Các anh chết trẻ, ý thức chưa nhiều. Ta cầu Phật gia hộ, tiếp độ, giáo hóa. Như vậy đất nước ta thêm một lực lượng bảo vệ.
Đối với kẻ thù mà ta không cầu siêu thì khi họ đầu thai lại trở thành con dân của nước mình nhưng tâm vẫn mang tư tưởng của giặc.
Ta cầu siêu cho anh hùng liệt sĩ là đúng rồi, nhưng ta vẫn phải cầu siêu cho bất cứ ai cầm súng chống lại nhân dân. Khi cầu siêu ta khuyên họ rằng: Lúc các anh còn sống, các anh đã cầm súng chống lại nhân dân, chống lại tổ quốc Việt Nam chúng tôi. Nhưng khi các anh đã mất rồi thì thôi, hận thù xưa chúng tôi xóa bỏ. Chúng tôi yêu thương các anh vì dù sao các anh đã đổ lại máu trên quê hương chúng tôi.
Chúng tôi mong các anh hãy hướng về Phật Pháp tu hành. Các anh hãy yêu thương đất nước này như đất nước của mình, đừng bao giờ còn ý nghĩ hận thù chống lại nhân dân, Nhà nước này. Ta phải cầu siêu cho những người đứng sai chiến tuyến. Sau này khi đầu thai lại không còn tư tưởng thờ giặc, theo ngoại bang.
Ta cần nghi thức chuẩn để chuyển tâm họ. Lúc sống họ là kẻ thù bên kia chiến tuyến nhưng bây giờ tâm họ phải trở về với chúng ta. Nếu họ đầu thai, trở thành công dân của đất nước trong thời đại mới, tâm của họ đã là tâm của đất nước này. Cầu siêu cho giặc cũng quan trọng như cầu siêu cho chiến sĩ để giải tỏa cho đất nước ta qua nhiều đời sau.
Cuối cùng, Thượng tọa căn dặn các Phật tử khi đã hiểu như vậy rồi, chúng ta không sợ ma. Ta phải làm 4 việc :
– Cúng thí thực cho các vong thường xuyên.
– Rải lòng từ bi thương yêu tất cả chúng sinh kể cả chúng sinh trong cõi vô hình.
– Thường quán thân này vô thường, rồi ngày nào cũng sẽ chết.
– Khi có dịp nên cầu siêu nơi này, nơi kia để giúp cho người âm được siêu thoát.
Thời Pháp thoại đã kết thúc. Những quan điểm về thế giới siêu hình và ý nghĩa của sự cầu siêu mà Thượng tọa trình bày đã giúp cho mọi người hiểu thấu đáu hơn, có cái nhìn chánh kiến, biết nên làm gì để cả âm dương đều được lợi ích.



















