Hà nội, trong cơn mưa tầm tã do ảnh hưởng của cơn bão số 4 làm cho mọi việc dường như chậm lại, nhưng trong sân Chùa Tăng Phúc mọi công việc chuẩn bị cho buổi lễ Vu Lan diễn ra tấp nập, thời tiết dường như không có sự ảnh hưởng gì cho lắm đến việc tổ chức này của nhà chùa.
Đến giờ hành lễ, trong không khí trang nghiêm. Chư ni cùng các Phật tử cúi đầu thành kính trước Tam Bảo, sau khi tụng một bài kinh mà tôi không rõ lắm vì tôi là một tín đồ ngoại đạo, không hiểu gì về Phật pháp, các chư ni và Phật tử cùng tụng Kinh Vu Lan. Nội dung của Kinh Vu Lan có thể hiểu theo sự suy nghĩ của tôi sau đây.
Công ơn của Cha mẹ được kể như trời cao, bể rộng: “Công Cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra” kẻ làm con phải biết báo đáp công ơn dưỡng dục của Cha mẹ, nếu như không làm được điều đó thì coi như đứa con đó là đồ bỏ đi.
Nếu như có trưởng thành sau này mà đứa con đó không biết đâu là nguồn cội, đâu là nơi khởi đầu cho sự thành công của chính bản thân mình ngày hôm nay, coi Cha mẹ như một người qua đường thì đó là một đứa con bất hiếu.
Tuy nhiên, sự báo hiếu Cha mẹ không phải nhất thiết chỉ có một cách, mà nó được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau, không nhất thiết phải mang đến cho Cha mẹ một cuộc sống đầy đủ vật chất, ăn sung mặc sướng, mà có thể là đem đến cho Cha mẹ mình niềm vui tinh thần, làm tiêu tan đi mọi phiền muộn do chính bản thân mình gây ra
Trong kinh Vu Lan, Phật dạy cho chúng ta rõ:
1. Có nhân thì có quả
Nhân quả là một định luật hiển nhiên không thể nào sai chạy được. Ở nơi hoàn cảnh cũng như ở nơi thân tâm, hễ đã gây nhân gì thì tất nhiên có quả báo nấy để thù đáp lại, tuy vô hình nhưng rất bình đẳng, không bao giờ gây nhân lành mà phải chịu quả báo khổ, cũng không bao giờ gây nhân dữ mà được hưởng quả báo vui.
Bởi vậy, bà mẹ Tôn giả Mục-kiền-liên sau khi đã sinh tâm tham lam bỏn xẻn mà gây nghiệp nhân không tốt đến lâm chung phải chịu quả báo đoạ đày trong đường ngạ quỷ, đói khát ốm gầy, đến nỗi gặp được bát cơm của Tôn giả Mục-kiền-liên dâng cúng, nhưng vì nghiệp tham của bà quá nặng mà cơm kia bỗng biến thành lửa đỏ cháy hừng không thể nào ăn được.
2. Nhân quả đều do tâm
Tuy vậy nhưng không phải: “một kiếp lỗi lầm là muôn đời đau khổ”. Trong kinh có dạy: “Tâm năng sinh nhất thiết pháp”, vậy biết rằng tất cả pháp đều do tâm. Tâm tạo nên nghiệp lành, hiện thành cảnh giới chư Thiên tốt đẹp, tâm tạo nên nghiệp dữ hiện thành cảnh giới địa ngục xấu xa, tâm tu theo đạo Bồ-đề, gây nhân giải thoát thì được tự tại yên vui ngoài vòng luân hồi sinh tử, vậy nên mặc dù chúng sinh ở trong hoàn cảnh tuy khổ cực cũng có thể hoán cải tâm niệm mình theo con đường chính đáng tốt lành.
Khi tâm đã tốt thì cảnh giới cũng tùy tâm mà trở nên vui đẹp. Cứ xét ngay nơi tâm niệm hiện tại của chúng ta thấy rõ. Khi tâm ta nghi ngờ độc ác thì cảnh vật nào cũng là cảnh vật khả ố xấu xa. Khi tâm ta hiền rộng rãi thì cảnh vật nào cũng đẹp đẽ vui tươi. Địa ngục thiên đàng nào phải ở đâu xa lạ!
Do lẽ đó mà bà mẹ Tôn giả Muc-kiền-liên tuy đã sinh vào nga quỷ cũng có thể chuyển đổi tâm niệm nghiệp nhân, mong được giải thoát khỏi chỗ tối tăm cực khổ.
3. Hiệu lực của chú nguyện
Chúng ta đã biết địa ngục, thiên đàng cũng chỉ tự mình tạo ra và chịu lấy, kẻ làm con nếu muốn cho cha mẹ mình khỏi lâm vào cảnh tai ương đau khổ, thì không chi bằng cố gắng làm cho cha mẹ bỏ ác làm lành, cải tà quy chính, dù cho cha mẹ đã qua đời cũng có cách báo đáp hoàn toàn được.
Phật dạy tất cả sự vật trùng trùng duyên nhau mà phát hiện nên tâm niệm của chúng ta cũng trùng khắp và duyên cùng cả vũ trụ không khác nào một làn sóng nhỏ cũng lan khắp cả đại dương, như ánh sáng của vì sao cũng chiếu cùng quả đất. Bởi vậy, tiền nhân xa cách đến đâu chúng ta cũng có thể đem tâm niệm đại hiếu, tu hành mà cảm thông và thay chuyển.
Chỉ sợ rằng sức tu hành của chúng ta kém cỏi, định lực không bao nhiêu, tựa hồ như ánh sáng của một vì sao nhỏ, làm sao thay đổi cho một cảnh vật càng thêm tươi sáng?! Chúng ta không thể không nhờ đến định lực của nhiều vị tu hành tinh tấn, chú nguyện cho mới mong thay đổi dễ dàng thân tâm cùng cảnh giới nơi mỗi người. Các vị tu hành tinh tấn ấy phần nhiều là chúng Tăng chuyên tu trong ba tháng hạ.
Sau khi nghe các chư ni và Phật tử Chùa Tăng Phúc tụng xong bản kinh Vu Lan, tôi trộm nghĩ, nếu cứ mỗi mùa Vu Lan Báo Hiếu này, tất cả những đứa con dù đang còn nhỏ dại hay đã trưởng thành, dù là những con người chân lấm tay bùn hay những kẻ quyền cao chức trọng, nếu làm theo lời Phật dạy thì sẽ không còn nước mắt của những người mẹ đau khổ trong những phiên toà, hay những ánh mắt vô hồn của những bà mẹ già trong những trung tâm từ thiện, không còn nhìn vào một cõi hư vô nào đó để mong mỏi những đứa con đã bỏ mẹ ra đi mà quay trở về.
Mùa Vu Lan Báo Hiếu 2008
Phạm Ngọc Thủy – Báo Công Thương








