Ngôi chùa gắn liền với làng quê Bắc bộ, tưởng như không có nó thì không có làng quê hàng nghìn đời nay.
Ao chùa có sen nở, giếng chùa có bèo tấm xanh, cổng chùa cao nhất lầu chuông, vào chùa đầu tiên bắt gặp là hai ông hộ pháp. Thuở bé, đứa trẻ nào cũng sợ hai ông hộ pháp cả. Gọi đơn giản là ông Thiện và ông Ác. Hai ông thiện ác đứng sừng sững, to lớn, một ông dữ tợn, một ông lành lành. Triết lý về cuộc đời thấy ngay khi bắt gặp hai vị “gác chùa làng”.
Đứa bé ở làng mở mắt ngơ ngác vào chùa, lờ mờ hiểu rằng trên đời thiện ác thường là song hành, hai ông ấy luôn luôn gác bên đời. Và trẻ con lại được người lớn an ủi: “Hai ông ấy to lớn nhất nhưng lại là cấp bậc nhỏ nhất ở chùa đấy con ạ”. Trẻ con vểnh tai lên nghe.
Vậy thì ai là cấp cao nhất trong chùa. Hoá ra cứ vào càng sâu bên trong, càng vào trong, gặp ông nào trong cùng bé nhỏ nhất lại là ông to nhất. Đó chính là ông Bụt, ông Phật. Chùa làng coi trọng chiều sâu. Nơi trang nghiêm phải là nơi sâu sắc. Điều cao quý phải ngự trị nơi thâm sâu. Sau bao nhiêu la hán, các vị chư Phật muôn hình ngàn vẻ, là nơi ta gặp ông Bụt mơ ước của tâm hồn.
Mở to mắt nhìn người lớn chắp tay kính cẩn, vểnh tai nghe mõ cốc nghiêm trang, đứa bé làng hiểu cuộc đời còn có một phần sâu thăm thẳm được người lớn tôn kính. Đó là mơ ước của những bậc đã sinh thành ra mình, đã từng trải trên đời. Vậy đó phải là niềm tin thiêng liêng hằng phấn đấu.
Vào ngày rằm, mồng một, người dân Bắc bộ thường hay đi chùa. Chuyện người dân đến chùa ở làng quê miền Bắc cúng Phật tưởng như bình thường, thì lại là khó hiểu với những người khác xứ.
Hồi mới giải phóng miền Nam, gặp một anh bạn ở Tây Ninh ra thăm miền Bắc, anh bảo tôi: Tại sao nhà cậu theo đạo Phật, mà cậu lại ghi lý lịch là không theo đạo nào?
Tôi trả lời anh rằng, nhà tôi, bố mẹ và anh chị em tôi đều không theo đạo Phật. Không “theo đạo” theo kiểu như Công giáo phải đi nhà thờ, hay như người theo đạo Phật ở miền Nam, ở Lào hay Campuchia, phải lên chùa như một luật đạo bắt buộc. Anh bạn tôi lắc đầu: Không hiểu, sao lại nửa vời như vậy? Theo là theo, không theo là không. Khi đó tôi cũng không giải thích nổi, chỉ nói: Truyền thống thế, thì như thế.
Gần đây, không đợi tôi giải thích nữa, anh bạn Tây Ninh gặp tôi nói: Tôi hiểu rồi. Hiểu gì? Hoá ra anh ấy đã hiểu về truyền thống của các làng quê Bắc Bộ. Người dân Bắc bộ được thừa hưởng di sản tinh thần của vị vua Phật hoàng Trần Nhân tông, “cư trần lạc đạo”. Sống với trần gian mà phần đạo vẫn cao khiết, nhờ mái chùa làng. Chắc hẳn Phật giáo trước Trần Nhân tông khác hẳn ngày nay, ngôi chùa cũng đơn giản là Thiền viện Phật giáo.
Chỉ có sau Phật hoàng Nhân tông, ngôi chùa mới rũ bỏ vai trò đơn thuần là tu viện, bước xuống hoà nhập với đời sống, là nơi gửi gắm tâm linh của chúng sinh, thực sự làm việc “hoà quang đồng trần” như tinh thần của người thày Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, người cha tinh thần của Tổ thứ nhất Trúc Lâm.
Ngôi chùa không chỉ còn là tu viện thâm nghiêm nữa, thì nó sẵn sàng là một bộ phận của làng nước. Ngôi chùa tham gia vào cuộc sống tâm linh của dân làng. Lên chùa cầu Phật, cưới cheo lập gia đình thì xem ngày, cầu phúc ở chùa, người đã mất thì gửi linh hồn vào chùa “ăn mày cửa Phật”.
Cửa chùa từ bi, còn có thế gánh cho người ta những nỗi bất hạnh, rủi ro. Nếu đứa trẻ khó nuôi thì “bán khoán” cho chùa. Người mất vào giờ xấu thì vào chùa “giải hạn”. Từ đầu sự sống, cho đến chót cùng của cuộc đời, nhà chùa làm sứ giả dẫn dắt tâm linh của người dân. Cành sen trên chùa có thể là biểu tượng của một đạo giáo, nhưng nó cũng bừng nở trong tâm thức người dân như hình ảnh về một đời sống hạnh phúc trần tục.
Sự vĩ đại của vua Trần Nhân Tông không phải là sáng tạo ra một thiền phái, không phải ông chỉ là một nhà triết học, nhà tư tưởng vĩ đại, mà là làm cho Phật giáo bước vào đời sống, thật sự đổi đời cho dân chúng.
Vua Trần chính là mẫu người hành động, một mẫu người anh hùng xuất chúng, anh hùng thời đại, một người Việt Nam có dòng máu Việt tiêu biểu nhất trong lịch sử. Dân chúng của vua Trần Nhân tông sống trên mảnh đất đa thần giáo, phải là người hiểu dân chúng, hiểu văn hoá bản địa sâu sắc như đức vua Phật hoàng, mới có thể cổ vũ nếp sống “cư trần lạc đạo”, làm cho ngôi chùa làng trở thành nơi chuyên chở phần hồn cho những số phận nông dân, thần dân của Ngài.
Chính cách làm của vua Trần Nhân tông, khiến cho mỗi thần dân của Ngài có phẩm chất công dân yêu nước, tốt đạo đẹp đời, điều mà xã hội hiện đại vẫn ao ước.
Vào chùa của làng quê Bắc bộ, là thấy vỉa sâu truyền thống tâm linh của làng, của nước. Nhiều nhà chùa có việc “phối thờ”. Chùa mà thờ cả thần thánh là sao? Phần lớn ngôi chùa cổ có gian thờ Trần triều hoặc Lý triều. Không, những vị vua quan nhà Trần, nhà Lý ấy với lịch sử đất nước là vua quan, nhưng với nhà chùa, họ là Phật tử, là Thiền sư, là La hán, là Bồ tát. Thành ra, dù có ý định “phân chia tôn giáo” cũng không thể làm nổi. Đó là một hình ảnh thánh thần chung sống với Phật với Đạo.
Thật khó hình dung chùa Bắc bộ lại có thể chỉ thờ một vị Phật là Thích Ca Mâu Ni như chùa Nam tông ở miền Nam. Nói gì thì nói, truyền bá tư tưởng Trúc Lâm của Phật hoàng dưới hình thức Thiền viện theo kiểu chùa Nam tông thì không thuyết phục được Phật tử là cư dân Bắc bộ. Chùa chiền của các vị Tổ Trúc Lâm rõ ràng phải là những ngôi chùa nơi quê hương các vị, nơi vùng làng quê Bắc bộ. Chính tại những ngôi chùa làng tầng tầng lớp lớp tượng chư Phật, các vị đã xây dựng nên Thiền phái bắt rễ vào quần chúng lao khổ, theo kiểu nói hiện đại, chứ không phải các vị Tổ Trúc Lâm ở trong các Thiền viện cao ráo, thâm nghiêm.
Lên chùa bẻ một cành sen, ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng… Toàn bộ hành vi sống của một con người tóm lược trong câu ca ấy. Lên chùa là tìm “thức ăn” tinh thần, đi cấy để tạo “thức ăn” vật chất. Ngày mùa ăn cơm muộn, dưới ngọn đèn dầu, nhưng hàng ngày thì sống dưới ngọn đèn đạo, vui với cành sen. Ngôi chùa làng thân thương ngàn đời của người dân quê tôi đồng bằng Bắc bộ…
Do vậy, mà tôi biết ngày mồng một Tết (và suốt cả những ngày đầu năm cho đến rằm tháng Giêng) hầu hết ai ai cũng thích lên chùa, đó là một ngày trọng đại nhất trong năm, một sự cầu mong an lành cho làng nước, cho gia đình và cho bản thân mình.








