Chúng ta còn nhớ thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Phật giáo hưng thạnh và đóng vai trò quan trọng trong việc hộ quốc an dân. Thật vậy, trong thời Phật giáo hưng thạnh, chỉ cần một tướng tài Lý Thường Kiệt và vài ngàn quân lính mà đánh thắng được quân Tống, ví như châu chấu mà đá xe phải đổ. Nhưng đến khi Pháp xâm chiếm nước ta, chỉ có 200 quân, trong khi chúng ta có đến hai vạn quân sĩ mà lại đánh không nổi. Tổ sư của chúng ta hoạt động trong thời kỳ này, Ngài vừa là nhà cách mạng, mà cũng là tín đồ Phật giáo, Ngài đã nhận thấy rõ tình trạng này.
Ngài thành lập Thiên Thai Thiền giáo tông nhằm kết hợp giáo lý đạo Phật với việc thực tập Thiền quán, tạo thành một pháp môn tu của tông phái này. Vì vào thời kỳ đó, Tăng Ni thiếu học, cho nên không hiểu biết giáo lý Phật Đà, thì dù có tu pháp gì cũng dễ rớt vào đường tà. Vì vậy, Ngài mở lớp dạy giáo lý và dạy áp dụng pháp Phật vào Thiền quán để giúp cho Tăng Ni, Phật tử tu hành đúng đắn; nhờ đó, Ngài đào tạo được một số Tăng tài. Và từ đó, Ngài mở rộng hoạt động này thành Liên Hữu Hội để kết hợp đầy đủ tứ chúng là Tăng Ni và nam nữ cư sĩ Phật tử, mới có được lực lượng quần chúng thật sự. Nếu chỉ có Tăng Ni mà không có Phật tử thì không thể hoạt động được; hoặc trái lại, chỉ có quần chúng Phật tử mà không có Tăng Ni lãnh đạo thì cũng không thể làm được.
Ngài cho các Tăng Ni đi khắp Nam kỳ lục tỉnh, tổ chức giáo đoàn xuống tận Long Xuyên, Cần Thơ, Tiền Giang, Long An, để phát triển Phật giáo. Đồng thời, một số vị đệ tử lớn của Tổ sư cũng ra hành đạo, trong đó có Hòa thượng Minh Nguyệt thành lập Hội Phật giáo Cứu quốc. Như vậy, từ hội nghiên cứu giáo lý theo đường hướng của Tổ sư đã được chuyển đổi thành Hội Phật giáo để cứu nước. Ngoài ra, Hòa thượng Thiện Hào lại tham gia Lục Hòa Tăng, tức chư Tăng cùng sống với nhau trong sáu pháp hòa kính, những quyền lợi được chia đồng đều là pháp mà Đức Phật cũng đã dạy. Thành lập hội này xong, Hòa thượng Thiện Hào lại lập Hội Lục Hòa Phật tử để người giỏi chăm lo cho người dở, người giàu giúp đỡ người nghèo; vì vào thời kỳ đó thường xảy ra tình trạng điền chủ bóc lột nông dân, cho nên Hội Lục Hòa Phật tử chủ trương xây dựng tình thương giữa chủ nhân và công nhân. Người nông dân nhờ có người chủ tốt bụng quan tâm chăm sóc đời sống của họ mà họ có được cuộc sống vật chất đầy đủ và ngược lại, người chủ cũng có lợi nhờ người nông dân hết lòng làm việc cho họ. Mô hình này người Nhật cũng đã áp dụng vào thời Minh Trị duy tân, theo đó, người chủ thương người công nhân như gia đình mình và người công nhân cũng coi người chủ là Thầy; vì không có người chủ giỏi quản lý thì xí nghiệp sẽ bị phá sản, công nhân cũng bị đói theo. Vì vậy, người công nhân quý trọng chủ nhân và người chủ có tiền của là nhờ bàn tay lao động của công nhân, cho nên lợi nhuận đều phân chia cho công nhân và chủ nhân theo tinh thần hòa kính của Phật giáo.
Như vậy, Tổ sư Huệ Đăng khai sáng Thiên Thai Thiền giáo tông và Liên Hữu Hội, rồi đến Hòa thượng Minh Nguyệt lập Hội Phật giáo cứu quốc và Hòa thượng Thiện Hào lập Hội Lục Hòa Phật tử. Tổ sư của chúng ta đã kết hợp hai giới xuất gia và tại gia để bảo vệ đạo pháp và dân tộc, nhưng thời gian hoạt động không bao lâu thì chiến tranh chống Pháp bùng nổ. Chư Tăng kế thừa trong tông phái này đều có tham gia các phong trào cứu quốc và nhiều vị đã có Huân chương Kháng chiến, Huân chương Độc lập, v.v… Nhờ quý Ngài tham gia các phong trào cứu quốc, nên các bậc chí sĩ yêu nước trong thời kỳ này hiểu được Phật giáo, nghĩa là họ hiểu Tăng Ni, Phật tử là người yêu nước.
Ngày nay, Phật giáo được phục hồi và phát triển, tiếp nối con đường hành đạo của bậc tiền nhân, chúng ta phải nghĩ tới bậc Thầy Tổ đã có công lao đóng góp cho đất nước và dân tộc, đặc biệt là cho cách mạng; nhờ vậy họ quý trọng Thầy Tổ và Phật giáo, cho nên chúng ta mới có điều kiện sinh hoạt như ngày nay.
Chúng ta đang ở trong giai đoạn Phật giáo phát triển rực rỡ, cần cố gắng giữ gìn và phát triển hơn nữa; đừng để mất uy tín đối với chính quyền và quần chúng mà làm cho Phật giáo suy đồi. Khi nào quần chúng bỏ rơi chúng ta và chính quyền không tôn trọng chúng ta, chắc chắn Phật giáo không thể nào tồn tại.
Ngày nay, sinh hoạt Phật giáo được tồn tại là nhờ quần chúng hết lòng và chính quyền ủng hộ. Chúng ta phải giữ gìn thành quả này bằng cách xây dựng chùa cũng tốt, nhưng làm sao xây dựng được ngôi chùa trong tâm ta, trong tâm dân chúng, trong tâm chính quyền mới là điều quan trọng. Vì chùa vật chất có được là do chùa trong tâm có.
Chùa Thiên Thai, chùa Thiên Bảo tháp này bị phá sập vì chiến tranh, chỉ còn nền chùa. Tuy ngôi chùa vật chất bị phá hủy, nhưng ngôi chùa trong tâm được củng cố, cho nên chùa vật chất tự hình thành lên. Vì vậy, ta không sợ phá vở chùa vật chất, chỉ sợ phá vở chùa trong tâm. Nhưng chùa vật chất bị phá, chùa trong tâm sáng, nghĩa là tất cả các môn hạ Thiên Thai đều nghĩ làm sao phục hồi ngôi chùa do Tổ Huệ Đăng sáng lập.
Thật vậy, khởi đầu là tâm của Hòa thượng Minh Nguyệt, Hòa thượng Pháp Dõng, Hòa thượng Thiện Hào là tâm của các vị Hòa thượng lớn này đặc biệt gắn liền với tâm của một số nhà cách mạng. Lúc đó, Hòa thượng Thiện Hào là Phó Chủ tịch Mặt trận Giải phóng miền Nam, Ngài muốn phục hồi lại ngôi chùa Thiên Thai. Hòa thượng Minh Nguyệt và Hòa thượng Pháp Dõng cũng muốn lập lại chùa Thiên Thai. Và khi ngôi chùa này mới xây lại, chỉ có vài cây cột và vài tấm tôn.
Như đã nói, vì tâm của các vị Hòa thượng này gắn liền với tâm của các nhà lãnh đạo, trong đó có ông Nguyễn Văn Linh và ông Võ Văn Kiệt rất quý Hòa thượng Minh Nguyệt và Hòa thượng Thiện Hào, vì đã từng ở tù chung; cho nên họ có sự đồng tình ủng hộ các vị Hòa thượng này. Phải nói rằng trong tâm của các Hòa thượng có chùa, nên bạn của các Hòa thượng là các vị này cũng có chùa trong tâm. Cho nên ông Nguyễn Văn Linh đã nói rằng Phật giáo của “chúng ta”, tức trong tâm ông cũng có Phật giáo, không phải Phật giáo của quý Thầy. Và ông Võ Văn Kiệt cũng đã nói rằng ông còn sống là nhờ Phật giáo; nói cách khác là tâm của ông này cũng có Phật. Vì vậy, khi hai vị này làm Thủ tướng, các ông vẫn muốn hoàn thành chùa vật chất, nhờ đó, một số chùa trong nước ta đã được trùng tu.
Trong tâm của chính quyền và trong tâm của Phật tử có chùa, nên ít nhiều đóng góp tiền của xây chùa. Tăng Ni, Phật tử 20 năm trước còn nghèo, nên chùa Thiên Bảo Tháp được xây dựng đơn sơ; nhưng nay có được ngôi chùa khang trang, theo tôi là do công đức của Thầy, của Tổ mà chúng ta được hưởng uy tín của các bậc tiền nhân. Các Ngài lúc đó vừa tu, vừa lao động khai hoang mở rộng đất đai chùa và nay chúng ta được Nhà nước đền bù, mới có kinh phí xây dựng. Thành quả là của Thầy Tổ, chúng ta chỉ có tấm lòng. Nếu tâm của Ban Thừa kế không có ý xây dựng thì ngôi chùa này cũng không có. Quan trọng là làm sao xây dựng được chùa trong tâm. Nếu tâm ta mất, vì chúng ta không muốn và nếu tâm Phật tử chán không muốn xây chùa, thì dù chùa lớn mà Tăng Ni, Phật tử không đến tu thì chùa cũng sẽ trở thành ngôi chùa hoang. Một số Tổ đình không có người tu là vì chùa trong tâm đã cháy, thì chùa vật chất chỉ còn là di tích lịch sử mà thôi.
Trong mùa an cư, chúng ta cố gắng xây dựng và củng cố ngôi chùa trong tâm mình, nghĩa là niềm tin vững mạnh thêm, đạo lực phải phát triển cao hơn. Trong khi người không thật tu thì không làm như vậy, cho nên họ ở chùa lớn rồi làm cho chùa nhỏ dần, cho đến làm chùa sập
Chư vị Tổ sư, điển hình là Tổ Thiên Thai lúc chưa có chùa, các Ngài đều chủ trương tu cho đắc đạo thì tâm sáng, tức là chùa trong tâm đã hình thành, bấy giờ ngôi chùa bên ngoài tự động hiện hữu. Khi tâm sáng, Tổ Thiên Thai dịch kinh và viết sách; các môn đệ đọc sách và tụng kinh, nên cảm được Ngài và tìm đến đây tu. Các kinh ngày xưa đều bằng chữ Hán, khó hiểu, Tổ đã dịch ra chữ Việt các kinh Di Đà, Phổ Môn, Hồng danh Sám hối, Vu Lan giúp chúng ta đọc kinh hiểu được. Ngài cũng làm những bài sám nhắc nhở chúng ta tu hành. Nhờ vậy, nhiều người đọc cảm tâm, cảm đức của Ngài, nên họ phát tâm cúng dường và tu đức, Phật giáo mới tồn tại. Riêng tôi, tâm của Tổ Huệ Đăng truyền qua tâm tôi bằng kinh sách; nếu không có kinh sách của Ngài biên soạn, tôi không biết Ngài, vì lúc tôi đi tu thì Tổ đã tịch. Tôi đã cảm được Tổ Huệ Đăng khi đọc bài sám Thảo Lư có câu:
“Y theo giáo pháp Thích Ca
Tự nhiên bản tánh Di Đà phóng quang …”
Người tu Tịnh độ thường nghĩ rằng niệm Phật Di Đà mười tiếng thì được Ngài rước về Cực Lạc sống đời đời. Nhưng Tổ Huệ Đăng bảo rằng “Y theo giáo pháp Thích Ca”, nghĩa là có cái nhìn khác về Đức Di Đà; hay nói cách khác là duy tâm Tịnh độ, bản tánh Di Đà. Tịnh độ là bản chất tâm của chúng ta. Nếu tâm chúng ta ô uế, phiền não thì cảnh giới liền biến thành Ta bà; trái lại, tâm chúng ta thanh tịnh thì cảnh giới là Tịnh độ. Vì vậy, từng bước tu, chúng ta đi vào thế giới Tịnh độ. Cho nên, thế giới Tịnh độ này là thế giới tâm của chúng ta, không phải đợi đến lúc chết, Di Đà mới rước. Tâm chúng ta thanh tịnh, cảnh giới an vui hiện ra. Nếu tâm ta thanh tịnh một phần thì được một phần cảnh giới an vui. Nếu tâm thanh tịnh toàn phần, an vui hoàn toàn là thế giới Cực lạc hiện hữu.
Thế giới Cực lạc ở phương Tây do Đức Phật Thích Ca chỉ dạy; đương nhiên Ngài không nói dối. Thế giới phương Tây có thật là do công đức của Phật Di Đà mà thành tựu. Vì vậy, chúng ta học đạo phải hiểu ý này ngầm giới thiệu cho chúng ta rằng không thể chờ sung rụng, phải có tu mới có chứng, Tịnh độ thành tựu do công đức làm nên.
Ai cũng tu, nhưng người tu đúng, người tu sai, người tu có nhiều công đức, hay ít công đức, hoặc không có công đức. Người không có công đức thì ở đâu cũng không ai chấp nhận, mới có tình trạng nhiều chùa không có thầy ở và nhiều thầy không có chùa ở, vì thầy này không có công đức.
Tu hành của chúng ta phải có công đức, chưa có công đức thì phải tạo công đức. Tôi được Giáo hội tín nhiệm giao phó nhiều chức vụ. Tại sao? 50 năm trước, tôi mới tu, phải tạo công đức. Bước đầu vào Phật học đường Nam Việt, tôi tạo công đức bằng cách dọn dẹp nhà vệ sinh và quét lá trong chùa; đó là công đức thiết thực. Ai đi vệ sinh đều thọ ơn tôi. Làm cho người khác hưởng thì mình được công đức, xuất gia hay tại gia cũng thế. Tôi làm việc này là việc mà ai cũng sợ và tránh né; nhưng tôi tình nguyện làm thì ai cũng mừng; vì nếu tôi không làm thì Ban lãnh đạo phải đề cử. Tôi hy sinh dọn dẹp cho sạch sẽ, ai cũng cảm thấy thoải mái. Đối với tôi, dọn bên ngoài sạch cũng vừa dọn cho tâm mình sạch. Cho nên, tôi vừa làm việc cho đại chúng, vừa lạy Hồng danh sám hối, nhờ Phật gia hộ cho tôi không buồn phiền, phải trái hơn thua; vì nếu làm mà không ai biết công mình thì rất dễ buồn giận và nếu giận buồn là công đức bị cháy và nghiệp sẽ theo đó sanh ra. Vào nhà vệ sinh dọn dẹp, nhưng nghĩ rằng mình dọn dẹp cái tâm bực tức. Ở đó thấy toàn phân nhơ, tôi quán tưởng tâm bực tức là phân nhơ và nếu phân nhơ đổ vào lòng mình thì công đức không thể sanh ra, nhưng nghiệp sanh. Vì vậy, tôi công quả làm sạch tâm mình và cũng dọn dẹp bên ngoài sạch cho người hưởng.
Ngoài ra, tôi siêng năng học hành, mới hiểu giáo nghĩa sâu sắc và ứng dụng được trong cuộc sống, làm được Phật sự. Cho nên, Giáo hội mới công cử tôi làm việc. Tôi thành tựu công đức là như vậy. Nếu không chịu cực khổ công quả và không thực tu thì không có công đức và cũng không làm được việc gì, mà mong có người cất chùa cho ở thì không bao giờ được. Đến đâu, phải mang phúc lợi thì người mới quý ta.
Quý vị niệm Phật Di Đà, nghĩ vào Tịnh độ ăn hại, chắc chắn không được. Tu Tịnh độ theo Tổ Huệ Đăng là phải tạo công đức, thì công đức của ta và công đức của Tổ tương ưng với nhau, cho nên Phật và Tổ hộ niệm ta. Theo tinh thần này, ngay ở Ta bà, chúng ta phát triển thành nhân gian Tịnh độ, thì chết mới vãng sanh Tây phương Tịnh độ và gặp Đức Di Đà thọ ký cho ta vào Tịch Quang chơn cảnh là viên mãn; không phải niệm Phật về Cực lạc để hưởng phước.
Trong kinh Di Đà, Đức Phật nói niệm mười câu hồng danh Di Đà là được vãng sanh Cực Lạc, nhưng còn phải nhớ nửa câu sau mới quan trọng, là nhứt tâm bất loạn chấp trì danh hiệu. Nhưng muốn nhứt tâm thì phải tham Thiền. Không nhứt tâm mà loạn tưởng niệm Phật thì đọa, làm sao về Cực lạc được. Người sắp chết mà sợ quá, niệm Phật thì được về Cực lạc hay không? Đã nhứt tâm thì không sợ, mà nghĩ đến Phật, nên Phật hiện vào trong tâm mình và trước mắt có Phật. Có người nói nhìn đâu cũng thấy Phật, thấy mây trời cũng là Phật. Và trở về kinh Hoa Nghiêm, không chỗ nào không có Phật, không gì không phải là Phật thì mới là Phật. Tu hành, chúng ta phải hiểu nghĩa rốt ráo mới được.
Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta khi chết được thấy Phật Di Đà, nghĩa là chúng ta phải thấy Phật hiện ra. Tuy nhiên, lúc bình thường, chúng ta phải nghĩ đến Phật thì lúc lâm chung mới thấy Phật hiện được. Thấy Phật Di Đà, chúng ta vãng sanh Cực lạc; nhưng vãng sanh Cực lạc rồi, việc thứ hai là thấy Phật xoa đầu thọ ký cho ta, thì lực Phật truyền tới ta, nên tâm ta liền trở thành thanh tịnh. Và bấy giờ, việc kế tiếp là:
“Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Lợi lạc tất cả chúng sanh giới….”
Được Phật thọ ký, tâm thanh tịnh, liền biến hóa mười phương và làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Chỗ nào có chúng sanh, chúng ta hiện thân vào cứu vớt, cho đến khi không còn chúng sanh nào, chúng ta vào Niết bàn.
Vì vậy, dù tu pháp môn Tịnh độ, nhưng không phải về Cực lạc để hưởng an lạc. Chỉ vì chúng ta đang ở hoàn cảnh khó khăn và hiểu biết kém cỏi, muốn giúp người cũng không làm được; cho nên chúng ta phải tìm Đức Phật Di Đà để Ngài xoa đầu thọ ký, chúng ta có trí tuệ mới hiểu biết khắp mười phương. Nhưng chờ đến được chỗ này cũng còn lâu, thì việc cần làm trước mắt là siêng năng học và đọc tụng kinh điển Phật. Tuy Phật chưa xoa đầu, nhưng nhờ đọc tụng kinh điển, trí tuệ vẫn mở mang được.
Thật vậy, thực tế cho thấy một số thầy niệm Phật, chờ Phật xoa đầu để có trí tuệ, nhưng cũng chưa có trí tuệ. Còn tôi chưa được Phật thọ ký, nhưng nhờ siêng năng tu và học, vẫn có được một phần trí tuệ, nên đóng góp được cho Phật giáo.
Tôi chia sẻ một số kinh nghiệm tu hành cùng đại chúng. Mong quý vị nếu niệm Phật, mà chờ Phật thọ ký thì còn lâu quá. Nhưng muốn được như vậy, thiết nghĩ phải siêng năng đọc tụng kinh điển và sám hối cho nghiệp tiêu, huệ sanh, từ đó cũng làm dược những việc nhỏ cho Phật giáo và cho xã hội.








