Trang chủ Tu học Niệm Phật Pháp môn niệm ân Đức Phật (Phần 4)

Pháp môn niệm ân Đức Phật (Phần 4)

394

 

ÂN ÐỨC PHẬT THỨ NHÌ 
 
II- "Itipi so Bhagavà Sammàsambuddho" 

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Săm-ma-săm-but-thô). 
 
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sammàsambuddho. 
 
Sammàsambuddho = Ðức Chánh Ðẳng Giác là bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trên toàn thế giới chúng sinh. 
 
Chân lý Tứ thánh đế 
 
1- Khổ thánh đế: Ðó là ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp trong tam giới là pháp nên biết. Chính Ðức Phật tự mình đã biết rõ xong rồi. 
 
2- Nhân sanh khổ thánh đeá (Tập thánh đế):Ðó là tham ái là pháp nên diệt. Chính Ðức Phật tự mình đã diệt tất cả xong rồi. 
 
3- Diệt khổ thánh đeá (Diệt thánh đế): Ðó là Niết Bàn là pháp nên chứng ngộ. Chính Ðức Phật tự mình đã chứng ngộ Niết Bàn xong rồi. 
 
4- Pháp hành chứng ngộ Niết Bàn, pháp diệt khổ thánh đế (Ðạo thánh đế): Ðó là Bát Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; là pháp nên tiến hành. Chính Ðức Phật tự mình đã tiến hành xong rồi. 
 
Ðức Thế Tôn tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, bằng trí tuệ quán xét pháp "Thập nhị duyên sanh". 
 
Như: Avijjà paccayà sankhàrà…

– Do vô minh làm duyên, nên hành sanh…
 
Ðức Thế Tôn đã chứng ngộ Khổ thánh đế Nhân sanh Khổ thánh đế.
 
Và trí tuệ quán xét "Thập nhị nhân diệt". 
 
Như: Avijjàyatveva asesaviràganirodhà sankhàranirodho…

– Do diệt tận vô minh, tham ái không còn dư sót, nên diệt hành…
 
 
Ðức Thế Tôn đã chứng ngộ Diệt Khổ thánh đế Pháp hành để chứng ngộ Niết Bàn, pháp diệt Khổ thánh đế. 
 
Ðiều này Ðức Phật đã khẳng định với nhóm 5 Tỳ khưu trong bài kinh Chuyển Pháp Luân (Samyuttanikàya, Mahàvagga, kinh Dhammacakkappavattanasutta): 
 
"Này chư Tỳ khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thật tánh của Tứ thánh đế theo Tam tuệ luân (trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành), thành 12 loại trí tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh đã phát sanh đến với Như Lai.
 
Này chư Tỳ khưu, khi ấy Như Lai khẳng định tuyên bố rằng "Như Lai đã chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh, nhân loại, vua chúa, Sa môn, Bà la môn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên cả thảy".  
 
Như vậy, Ðức Thế Tôn đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trên toàn thế giới chúng sinh, nên có Ân Ðức Sammàsambuddho = Chánh Ðẳng Giác. 
 
Ðức Chánh Ðẳng Giác đặc biệt có đủ 5 pháp Neyyadhamma: là tất cả pháp nên biết của bậc Chánh Ðẳng Giác là: 
 
1- Sankhàra: Tất cả pháp hành cấu tạo.
2- Vikàra: Sắc pháp biến đổi.
3- Lakkhana: Trạng thái sanh trụ diệt của sắc pháp.
4- Pannattidhamma: Chế định pháp: Chế định ngôn ngữ để gọi tên thuyết giảng các pháp.
5- Nibbàna: Niết Bàn, pháp diệt Khổ thánh đế.
 
Ðức Chánh Ðẳng Giác hoặc Ðức Toàn Giác vì có đầy đủ 5 pháp ấy, nên Ngài chế định ra ngôn ngữ để thuyết pháp tế độ chúng sinh [*] . 
 
[*] Chư Phật Ðộc Giác đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán gọi là Ðộc Giác Phật; nghĩa là tự Ngài chứng ngộ mà không thuyết pháp tế độ chúng sinh khác cũng chứng ngộ như Ngài. Bởi vì, Ngài không chế định được ngôn ngữ để thuyết pháp như Ðức Chánh Ðẳng Giác. 
 
Còn bậc Thánh Thanh Văn, sở dĩ thuyết pháp tế độ chúng sinh được là do nhờ nghe học hỏi theo lời giáo huấn của Ðức Phật. 
 
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sammà-sambuddho = Ðức Chánh Ðẳng Giác. 
 
Niệm Ân Ðức Sammàsambuddho 
 
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Sammàsambuddho" này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng. 
 
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Sammàsambuddho…, Sammà-sambuddho…, Sammàsambuddho…", hoặc câu Ân Ðức Sammàsambuddho: "Itipi so Bhagavà Sammà-sambuddho…, Itipi so Bhagavà Sammàsambuddho…, Itipi so Bhagavà Sammàsambuddho…", làm đối tượng thiền định… 
 
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).
  
ÂN ÐỨC PHẬT THỨ BA 
 
III- Itipi so Bhagavà vijjàcaranasampanno 

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Vít-xà-chá-rá-ná-săm-băn-nô).
  
Ðức Thế Tôn có ân đức Vijjàcaranasampanno = Ðức Minh Hạnh Túc. 
 
Ðức Minh Hạnh Túc là bậc có trọn đủ Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng.
 
Tam Minh 
 
1- Túc mạng minh: Là trí tuệ thấy rõ, biết rõ, nhớ rõ trở lại tiền kiếp từ một kiếp, hằng trăm kiếp, hằng ngàn kiếp, hằng vạn kiếp, hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp… Ðối với Ðức Phật Toàn Giác có khả năng ghi nhớ lại vô số kiếp không có giới hạn. (Còn đối với Ðức Phật Ðộc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác có giới hạn).
Túc mạng minh biết rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, ba la mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ… đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết. 
 
2- Thiên nhãn minh: Là trí tuệ thấy rõ biết rõ như mắt của chư thiên, phạm thiên, có khả năng thấy rõ biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh.
Thiên nhãn minh có hai loại: 
 
a) Tử sanh minh: Là trí tuệ biết rõ sự tử, sự tái sanh của tất cả chúng sinh.
 
Ðức Thế Tôn có Tử sanh minh này biết rõ chúng sinh sau khi chết rồi do nghiệp nào cho quả tái sanh ở cảnh giới nào. 
 
b) Vị lai kiến minh: Là trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của chúng sinh.
 
Chư Phật dùng Vị lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm; còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, bậc Ðộc Giác Phật, bậc Thánh Thanh Văn… 
 
3- Lậu tận minh: Là trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới đó là 4 Thánh Ðạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 4 pháp phiền não trầm luân không còn dư sót; đồng thời Ðức Thế Tôn tận diệt được tất cả mọi tiền khiên tật (vàsanà) do tích luỹ từ vô lượng kiếp trong quá khứ. 
 
Bát Minh 
 
1- Túc mạng minh. 

2- Thiên nhãn minh. 

3- Lậu tận minh.
 
4- Thiền tuệ minh: Trí tuệ thiền tuệ tam giớithấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp, và trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới chứng đắc Thánh Ðạo Tuệ, Thánh Quả Tuệ và Niết Bàn. 
5- Hoá tâm minh: Trí tuệ có khả năng hoá thân khác theo mong muốn của mình, do năng lực của thiền định. Như trường hợp Ðức Phật thuyết tạng Vi Diệu Pháp vào hạ thứ bảy tại cung Tam thập tam thiên suốt ba tháng. Mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Ðức Phật hoá thân khác như Ðức Phật tiếp tục thuyết pháp, còn chính Ðức Phật thật đi khất thực ở Bắc câu lưu châu. Khi độ ngọ xong trở lại cung trời thay thế Ðức Phật hoá thân, chỉ có một số ít chư thiên, phạm thiên bậc cao có nhiều oai lực mới biết được. 
6- Thần thông minh:Trí tuệ có khả năng biến hoá nhiều phép thần thông khác nhau do năng lực thiền định, như một người hoá thành nhiều người, tàng hình không ai thấy, hiện hình nơi khác, đi xuyên qua núi, đi trên hư không… 
7- Thiên nhĩ minh: Là trí tuệ như tai của chư thiên có khả năng nghe được nhiều thứ tiếng người, tiếng súc sanh, tiếng chư thiên gần xa do năng lực thiền định. 
8- Tha tâm minh: Là trí tuệ có khả năng biết đến tâm của người khác, chúng sinh khác đang nghĩ gì, thiện tâm hoặc bất thiện tâm. 
 
Ðó là Tam minh, Bát minh. 
 
15 Ðức Hạnh Cao Thượng 
 
1-Có giới đức hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh. 
2- Thu thúc lục căn thanh tịnh: thu thúc khi thấy bằng mắt, nghe bằng tai, ngửi bằng mũi, nếm bằng lưỡi, tiếp xúc bằng thân, suy nghĩ bằng ý hoàn toàn thanh tịnh. 
3- Biết tri túc trong vật thực: nhận vật thực vừa đủ thọ thực, khi thọ thực đàng hoàng, còn 4-5 miếng cơm nữa đủ no, biết ngừng lại để dành uống nước, không dùng no quá.
 
4- Tinh tấn tính thức: ngày, đêm tinh tấn hành phận sự, nghĩa là suốt ngày không ngủ, ban đêm có 3 canh; canh đầu: ngồi hành đạo, đi kinh hành; canh giữa: (22 giờ khuya) nằm nghỉ ngủ trong tư thế nằm nghiêng bên phải, có trí nhớ trí tuệ trước khi ngủ, sẽ thức dậy lúc cuối canh giữa; canh chót: (2 giờ sáng) hành đạo, đi kinh hành… Gọi là tinh tấn luôn luôn tính thức. 
5- Ðức tin: có đức tin không lay chuyển. 
6- Trí nhớ: thường có trí nhớ.
 
7- Hổ thẹn: biết tự mình hổ thẹn, không làm mọi tội ác. 
8- Ghê sợ: biết ghê sợ, không làm mọi tội ác. 
9- Ða văn túc trí: học nhiều hiểu rộng tất cả các pháp. 
10- Tinh tấn: có tâm tinh tấn không ngừng nghỉ. 
11- Trí tuệ: có trí tuệ hiểu biết rõ tất cả các pháp. 
12- Ðệ nhất thiền: có đệ nhất thiền hữu sắc và vô sắc. 
13- Ðệ nhị thiền: có đệ nhị thiền hữu sắc và vô sắc. 
14- Ðệ tam thiền: có đệ tam thiền hữu sắc và vô sắc.
 
15- Ðệ tứ thiền: có đệ tứ thiền hữu sắc và vô sắc. 
 
Ðó là 15 đức hạnh cao thượng. 
 
Ðức Thế Tôn có trọn đủ Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng hợp với trí đại bi để tế độ chúng sinh, có hữu duyên nên tế độ, cứu vớt chúng sinh ấy giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. 
 
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Vijjàcarana-sampanno = Ðức Minh Hạnh Túc. 
 
Niệm Ân Ðức Vijjàcaranasampanno
 
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Vijjàcaranasampanno" này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng. 
 
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Vijjàcaranasampanno…, Vijjàcaranasampanno…, Vijjàcaranasampanno…", hoặc câu Ân Ðức Vijjàcaranasampanno: "Itipi so Bhagavà Vijjàcaranasampanno…, Itipi so Bhagavà Vijjàcaranasampanno…, Itipi so Bhagavà Vijjà-caranasampanno…", làm đối tượng thiền định… 
 
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham). 
 
ÂN ÐỨC PHẬT THỨ TƯ 
 
IV- Itipi so Bhagavà Sugato
 
(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Sú-gá-tô) 
 
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sugato = Ðức Thánh Thiện. 
 
Sugato có 4 ý nghĩa: 
 
1- Ngự theo Thánh Ðạo.
2- Ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối.
3- Ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí.
4- Thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh. 
 
Giải thích: 
 
1-     Sugato có ý nghĩa ngự theo Thánh Ðạo như thế nào? 
 
Ðức Thế Tôn ngự (hành) theo Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh là: 
 
Chánh kiến: Trí tuệ thấy chân chính, đó là trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế.
 
Chánh tư duy: Tư duy chân chính, đó là tư duy thoát khỏi ngũ trần, tư duy không thù oán, tư duy không hại chúng sinh. 
 
Chánh ngữ: Lời nói chân chính, đó là không nói dối, không nói lời đâm thọc chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời vô ích. 
 
Chánh nghiệp: Hành nghiệp chân chính, đó là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. 
 
Chánh mạng: Nuôi mạng chân chính, đó là không sống theo tà mạng do hành ác. 
 
Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chính là:
  
* Tinh tấn ngăn ác pháp phát sanh.
* Tinh tấn diệt ác pháp đã sanh.
* Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sanh.
* Tinh tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã sanh. 
 
Chánh niệm: Niệm chân chính, đó là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. 
 
   Chánh định: Ðịnh chân chính, đó là định tâm trong đệ nhất thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, đệ ngũ thiền siêu tam giới có Niết Bàn làm đối tượng. 
 
Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh này đồng sanh trong Thánh Ðạo tâm, Thánh Quả tâm, có Niết Bàn làm đối tượng.
  
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự theo Thánh Ðạo. 
 
2-     Sugato có ý nghĩa ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối như thế nào? 
 
Ðức Thế Tôn là bậc đầu tiên chứng ngộ Niết Bàn bằng trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới, đó là 4 Thánh Ðạo Tuệ, 4 Thánh Quả Tuệ, nên Ngài có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối. 
 
Về sau, Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ các hàng đệ tử cũng chứng ngộ Niết Bàn bằng Thánh Ðạo Tuệ, Thánh Quả Tuệ, nhưng những bậc Thánh Thanh Văn này không có Ân Ðức Sugato như Ðức Thế Tôn, vì không phải bậc đầu tiên chứng ngộ Niết Bàn.
Do đó, chỉ có Ðức Thế Tôn mới có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối. 
 
3-     Sugato có ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí như thế nào? 
 
Ðức Bồ Tát đạo sĩ Sumedha, tiền thân của Ðức Thế Tôn, đã phát nguyện sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, được Ðức Phật Dìpankara thọ ký còn 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa, sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác có danh hiệu Gotama. Từ đó, Ðức Bồ Tát trở thành cố định tiếp tục bồi bổ pháp hạnh ba la mật: 10 bậc thường, 10 bậc trung và 10 bậc thượng gồm đủ 30 pháp hạnh ba la mật suốt 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp bất thoái chí. Ðến kiếp chót, Ðức Bồ Tát Siddhattha từ bỏ ngai vàng đi xuất gia đã trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác. 
 
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí. 
 
4-     Sugato có ý nghĩa thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh như thế nào? 
 
Ðức Thế Tôn tuỳ thời thuyết pháp chân lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho chúng sinh, nếu không đem lại lợi ích, thì Ðức Thế Tôn không thuyết pháp. 
 
Ðức Thế Tôn biết rõ 6 trường hợp; trường hợp nào nên thuyết giảng và trường hợp nào không nên thuyết giảng như sau: 
 
1- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp ấy. 
 
2- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp ấy. 
 
3- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dầu người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
  
4- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp ấy. 
 
5- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy. 
 
6- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy. 
 
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh.
  
Ân Ðức Sugato có 4 ý nghĩa tóm tắt này, đặc biệt đáng ghi nhớ ý nghĩa đức Sugato thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích cho chúng sinh.
  
Niệm Ân Ðức Sugato
  
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Sugato" này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
  
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Sugato…, Sugato…, Sugato…", hoặc câu Ân Ðức Sugato: "Itipi so Bhagavà Sugato…, Itipi so Bhagavà Sugato…, Itipi so Bhagavà Sugato…", làm đối tượng thiền định…
 
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).
 
Nguồn: Buddhnet.net
Mời bạn đọc xem tiếp Pháp môn niệm ân Đức  Phật (Phần 4)