Trang chủ Đời sống Phóng sinh nên như thế nào?

Phóng sinh nên như thế nào?

Hàng năm, trong những dịp lễ, tết, hội hè tại các đền, chùa, lăng, miếu… có lẽ hình ảnh làm ta xúc động nhất là ảnh một người đang giơ cao chiếc lồng mở ngỏ để hàng trăm con chim bay vút trở về bầu trời tự do. Ta cũng thầm thán phục lòng từ tâm của người đã bỏ đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để chuộc lại sự sống cho những sinh linh nhỏ nhoi vô tội đang “dở sống, dở chết” trong cảnh “cá chậu, chim lồng” được về lại tổ ấm với những con chim non đang há mỏ đợi được mớm mồi…

Nhưng những ý nghĩ và tình cảm đó chỉ có cách đây mươi năm trở về trước. Ngay nay mọi sự đã khác. Hình ảnh cô gái tuổi “teen” xinh đẹp, áo dài trắng thánh thiện với chiếc lồng chim phóng sinh trước cửa Phật in trên một trang báo xuân năm nào không khỏi làm ta suy nghĩ: hiện tại, có nên phóng sinh không? Phóng sinh như thế nào là hợp chánh pháp?

Có lẽ để có được hành vi phóng sinh như ngày nay, con người đã phải trải qua một quá trình tiến hóa tư tưởng lâu dài. Thời tiền sử, với phương thức kiếm ăn nguyên thủy là hái lượm, săn bắt, chính con người là kẻ sát sinh hung hãn nhất không chỉ với muông thú mà ngay cả đối với đồng loại. Khi đã biết trồng trọt, thuần dưỡng súc vật để làm lương thực, việc sát sinh đã giảm đi phần nào. Nhưng bị mê muội bởi tín ngưỡng cả đa thần lẫn độc thần, con người vẫn giết súc vật, kể cả giết đồng loại, để làm vật tế.

Hành vi phóng sinh được kể lại lần đầu tiên trong lịch sử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có lẽ là việc thái tử Tất Đạt Đa săn sóc một con thiên nga bị người em họ Đề Bà Đạt Đa mới tám tuổi bắn bị thương bay lạc vào vườn thái tử. Chúng ta đều biết thái tử Tất Đạt Đa là người đã bỏ ngôi báu để tìm đạo giải thoát và trở thành người trao truyền Phật pháp trên thế gian. Các tài liệu kể về cuộc đời Đức Phật cho biết khi con thiên nga ấy đã lành lặn, thái tử Tất Đạt Đa bấy giờ mới chín tuổi liền thả cho nó trở lại với bầu trời tự do của nó. Việc này đã dẫn tới một cuộc tranh chấp giữa thái tử và vương tử khiến triều đình vua Tịnh Phạn, phụ vương của thái tử Tất Đạt Đa, phải phân giải.

Chính nhờ tinh thần từ bi của đạo Phật, tư tưởng con người mới có một bước tiến đột phá về nhân tính, dẫn đến hành vi phóng sinh. Một trong năm nguyên tắc hành xử (ngũ giới) của đạo Phật là không sát sinh (giới sát), nguyên tắc đầu tiên mà mọi Phật tử phải hành trì. Nhưng nếu không sát sinh mà lại kết hợp với phóng sinh thì công đức gấp bội. Như vậy, phóng sinh bắt nguồn từ nguyên lý giới sát (không sát sinh).

Lịch sử đạo Phật cho biết vua A Dục vốn từng là một kẻ hiếu sát trên bước đường chinh phục các vương quốc lân cận, sau khi đến với Phật pháp, lại là một trong những người có công lớn trong việc truyền bá đạo Phật ra ngoài âËn Độ. Chính vua A Dục đã cho xây dựng nhiều bia ký và trụ đá ghi nhận các sự kiện liên quan đến Phật giáo, đặt rải rác trên phần lớn vùng Bắc ấn, trong đó có những tấm bia khắc những huấn dụ của nhà vua về việc không nên giết hại sinh vật. Khi đạo Phật truyền sang Trung Quốc và Việt Nam, người Trung Quốc và người Việt Nam cũng hấp thu tinh thần từ bi của đạo Phật để tránh sát sinh và đi đến phóng sinh.

Nhưng ngày xưa người ta phóng sinh như thế nào? Người ta chỉ phóng sinh trong trường hợp tình cờ bắt được “chim sa, cá nhảy” thì không mang về giết thịt mà thả chúng ra; gặp thú hoang đang mắc nạn, bị thương tích thì cứu chúng bằng cách chữa trị rồi thả về rừng. Đó mới chính là hành động phóng sinh vô tư, cao cả bắt nguồn từ cái tâm của những người có lòng từ ái, có sự trắc ẩn.

Hiện nay, qua những kênh truyền hình như National Geographic, Discovery, Animal Planet… phát sóng 24/24 giờ, chúng ta được biết có những khu bảo tồn thú hoang, những bệnh viện thu gom động vật bị lạc, bị thương tích hoặc còn sơ sinh nhưng mẹ chết vì thiên tai hay loài khác ăn thịt, về chữa trị, nuôi dưỡng rồi thả chúng trở lại thiên nhiên hoang dã, là không gian sống phù hợp nhất đối với chúng. Như vậy, quan niệm phóng sinh ngày xưa và những hành động bảo vệ động vật hoang dã hiện nay của các tổ chức bảo vệ môi trường quốc tế có những nét tương đồng.

Ngày nay ở nước ta, người ta phóng sinh như thế nào? Với cách phóng sinh như thường diễn ra ở các dịp lễ, tết, hội hè… hiện nay, quan niệm và hình thức phóng sinh hiện đại đã khác xa với quan niệm và hình thức phóng sinh nguyên thủy vừa nêu ở trên. Trong thời đại cái gì cũng mua bằng tiền, người phóng sinh sẽ dùng tiền mua chim ngay tại nơi thờ tự thiêng liêng mà không phải tình cờ bắt được chúng. Có người mua thì sẽ có người bán. Càng nhiều người thả chim thì càng lắm người săn bắt chim để thỏa mãn nhu cầu. Việc phóng sinh như thế đã khuyến khích và nuôi sống một guồng máy săn bẫy chim cùng những đầu nậu; tạo ra một vòng luẩn quẩn: bắt, thả, thả, bắt… không ngừng.

Trải qua nhiều ngày bị giam giữ, qua nhiều công đoạn vận chuyển, mua qua, bán lại, con chim đến tay người mua đã sinh bệnh vì đói khát, tâm thần hoảng loạn; khi được thả, nhiều con không thể bay thoát lên được mà phải bò dưới đất, bị chính người bán bắt lại hoặc làm mồi cho mèo, chuột. Trong lễ tiễn ông Táo đón tết hàng năm, có người đã thả cá xuống kênh Nhiêu Lộc (!) mà không cần biết những sinh vật này sống được mấy phút sau khi được “phóng sinh” xuống dòng nước “tử thần”  đặc quánh chất độc hại.

Hành động săn bắt chim vừa trái với đạo lý vừa vi phạm pháp luật. Điều 7, khoản 2, 3 của Luật Bảo vệ môi trường 2005 nghiêm cấm việc săn bắt thú hoang. Người phóng sinh đã vô tình tiếp tay cho người săn bắt, buôn bán chim, gián tiếp làm một điều ác mà cứ tưởng mình làm việc thiện.

Việc săn bắt chim, thú để ăn thịt và phóng sinh đã làm tổn hại đến cân bằng sinh thái. Hầu hết các giống chim đều là “thiên địch” của các loại côn trùng ăn lá, phá hại cây trồng; cho nên chúng giúp ích cho nhà nông, cho mùa màng, cây trái. Ở Trung Quốc đầu thập niên 1960, người ta đã phát động “Chiến dịch diệt chim sẻ” (Đả mã tước vận động) chỉ vì sự tính toán thô thiển, nhỏ nhen của con người cho rằng chim sẻ là giống ăn hại lúa (?), cần phải bị tiêu diệt. Thế là chỉ sau “chiến dịch” một năm, sâu bọ tự do sinh sôi nảy nở tàn phá môi trường, gây ra mất mùa trầm trọng, nạn đói xuất hiện…

Ngoài ra, săn, bắt, vận chuyển chim từ nơi này sang nơi khác có thể làm phát tán virus cúm gia cầm nguy hiểm hiện đang bùng phát ở một số tỉnh nước ta. Do trực tiếp tiếp xúc với chim nên người bắt, người vận chuyển, người buôn bán và khách mua chim để phóng sinh rất dễ bị nhiễm virus cúm gia cầm, dễ lây lan thành dịch…

Thật phi lý khi chim, thú đang sống tự do trong môi trường thiên nhiên lại bị con người bắt, rồi chính con người nhân danh triết lý cao cả lại làm ơn thả nó ra? Những con chim bị bắt rồi lại thả thực chất là nạn nhân của thói trình diễn, phô trương từ thiện, phóng sinh thương mại, vụ lợi ngày nay.

Phóng sinh như vậy có khác gì sát sinh.