Đây có thể nói là một thành tích kỳ diệu của Thiền tông. Nhìn lại một cách tường tận quá trình phát triển lịch sử Thiền tông, từ đó chúng ta nhận hiểu ra được một nguyên tắc, và nguyên tắc này là đầu mối chủ yếu về sự diễn biến lịch sử Thiền tông.
Nhìn chung lịch sử phát triển của mỗi tôn giáo trong thế giới, mọi tôn giáo đều có thể phát triển và hưng thịnh, đó là nhờ vào sự kết hợp giữa tình hình thực tế của mỗi địa phương hoặc mỗi nước, thích ứng với trình độ phát triển và thuận theo trào lưu tư tưởng của xã hội bấy giờ. Thỏa mãn được sự đòi hỏi của xã hội và tín chúng liền được sự ủng hộ rộng rãi trong nhân gian nên mới được phát triển mạnh mẽ.
Trước khi Thiền tông được sáng lập, Phật giáo Ấn Độ đã truyền vào Trung Quốc khoảng mấy trăm năm. Thời gian đó đã trải qua nhiều lần đấu tranh giữa Nam triều và Bắc triều vào đời Ngụy Tấn. Mãi đến hai đời Tùy, Đường thì đã hoàn toàn đứng vững, Thiền tông mới được người Trung Quốc công nhận. Các tông phái Phật giáo của Trung Hoa xuất hiện ban đầu vào thời Tùy, Đường sau khi được giới trí thức nước này tiếp thu và hiểu rõ. Xuất hiện sớm nhất là Phật giáo Thiên Thai tông, kế đó các tông phái khác ra đời là: Tam Luận tông, Pháp Tướng tông, Luật tông, Hoa Nghiêm tông, Mật tông, Tịnh Độ tông và Thiền tông. Mỗi tông phái đều có một cách lý luận và thực tiễn riêng của mình; đồng thời cũng có một nhóm tín đồ và bối cảnh chính trị. Phần lớn các tông phái Phật giáo đã thúc đẩy sự phồn thịnh Phật giáo Trung Quốc, khiến Phật giáo nước này đã nhanh chóng tiến đến một bước phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nhưng sự đấu tranh và khuynh loát lẫn nhau giữa các tông phái không đồng càng trầm trọng hơn.
Sau đó khoảng một hai trăm năm, các tông phái suy vi rất nhanh, chỉ còn lại hai thế lực mạnh là Thiền tông và Tịnh Độ tông nhanh chóng phát triển. Nguyên nhân đưa đến hiện tượng này chúng ta có thể nhìn theo hai phương diện để phân tích.
Thứ nhất là về mặt xã hội: Trong nền tôn giáo tại Trung Quốc có một hiện tượng quan trọng, đó là tôn giáo cần phải kết hợp với hiện thực chính trị, phải được sự ủng hộ của giai cấp thống trị thượng tầng. Vì thế giai cấp thống trị tốt hay xấu, thường cũng hay quyết định sự thịnh suy của một tôn giáo. Chẳng hạn như tông Hoa Nghiêm, vì mất đi sự ủng hộ của hoàng gia nên cuối cùng suy thoái, không còn có mặt.
Ngoài ra, nhìn theo đại đa số tín đồ bình dân, tôn giáo cần phải có được lợi ích thiết thực đối với họ, giản dị dễ dàng nắm bắt, có thể khiến cho tín đồ cảm nhận được sự an ủi vỗ về do tín ngưỡng tôn giáo mang lại một cách sâu sắc và có tính hiệu lực trong thời gian nhất định. Đồng thời còn phải phù hợp với nguyên tắc luân lý xã hội, mới có thể được sự chấp nhận của tín đồ. Ví như các tông phái: Tam Luận tông, Duy Thức tông bởi vì nghĩa lý thâm áo luận chứng phiền phức, cho nên không thể lưu truyền rộng khắp. Còn Tịnh Độ tông vì là pháp môn đơn giản dễ nắm bắt nên được truyền bá rộng rãi mãi đến ngày nay.
Thứ hai là về phương diện Phật giáo, đây chỉ là những sự việc bên trong tông phái. Dựng lập nên lý luận tông phái là tùy theo tình huống và nhu cầu của xã hội mà xuất hiện ra đời. Chẳng hạn như Thiên Thai tông, vì Phật giáo Trung Quốc đương thời, miền Nam trọng về nghĩa học và miền Bắc trọng về Thiền định. Tông phái này từ ban đầu đã kết hợp được cả hai đặc điểm này, vì thế đã được sự chú ý của người thời ấy. Ngoài ra tông phái còn là một kết cấu linh động, những lý luận của tông phái muốn thích ứng với xã hội thì phải sáng tạo những điều mới mẻ, tùy thời mà điều chỉnh đường lối của tông phái mình. Ví dụ như Pháp Tướng tông; cứ khư khư giữ đúng truyền thống của Ấn Độ, như thế thì không thể duy trì lâu dài nên vừa phát khởi lên rồi liền suy tàn.
Căn cứ vào bộ Cảnh Đức truyền đăng lục, Truyền pháp Chánh tông ký v.v… làm chánh, chiếu theo truyền thống thuyết pháp mà đàm luận về việc Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai sáng Thiền tông Trung Quốc là sự thật lịch sử. Nhân vì cứu cánh của Thiền tông thật không có một pháp để truyền, lại không một pháp cho người, chỉ là đem tâm tâm thầm khế hợp để biểu thị sự truyền thừa, xứng với câu “Ngàn Thánh truyền mà chẳng truyền”. Bởi vì, đối với văn tự ghi chép, hãy còn nằm trong vòng tranh luận, cần suy xét đắn đo. Mà trên sự thật lịch sử truyền đăng, tuy những lời thuyết pháp không đồng, song Thiền tự có nguồn gốc truyền trao của Thiền, tức đem chánh giác của Thích Tôn làm chỗ khởi nguyên của Thiền. Vì thế mà Thiền tông còn gọi là Phật Tâm tông.
Cơ sở truyền trao Thiền tông không nằm trong kinh điển, mà chính ngay tâm Phật tròn đầy. Thế nên, Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Chẳng lập văn tự, còn có cách truyền khác ngoài kinh điển, chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật”. Nhân đây, luận việc Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc truyền bá Thiền tông, cũng giống như Đức Phật truyền thẳng tâm giác ngộ tròn đầy cho ngài Đại Ca Diếp.
Tương truyền, một hôm Đức Phật trên hội Linh Sơn, tay cầm cành hoa thị chúng. Khi ấy, cả hội chúng không nhận được yếu chỉ nên đều im lặng, riêng ngài Đại Ca Diếp mỉm cười rạng rỡ. Thế Tôn nói: “Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, có cách truyền khác ngoài kinh điển, đem giao phó cho Ma Ha Ca Diếp”. Đây tức công án “Niêm hoa vi tiếu” của Thiền tông, cũng tức là Đại pháp mà Đức Thích Tôn truyền trao cho Ca Diếp. Ở chỗ “Niêm hoa vi tiếu này” rất giống với sự kiện tâm tâm khế hợp khiến ngài Ma Ha Ca Diếp được trở thành Đệ nhất Tổ trong việc truyền đăng.
Đức Thế Tôn ở trước tháp Đa Tử, nhường phân nửa tòa cho ngài Ma Ha Ca Diếp, lấy y Tăng già lê quấn vào người ngài Ca Diếp rồi bảo rằng: “Ta đem Chánh pháp Nhãn tạng, thầm giao phó cho ông. Ông phải giữ gìn, truyền xuống cho A Nan làm Tổ thứ hai, chớ để đoạn dứt”. Thế Tôn nói kệ: “Pháp vốn pháp không pháp, pháp không pháp pháp cũng không, nay trao truyền pháp không, pháp pháp đâu từng pháp”. Thế Tôn lại nói kệ dặn dò ngài Ca Diếp: “Ta đem y kim sắc Tăng già lê này giao phó cho ông, phải nên giữ gìn truyền bá đến Đức Phật Di Lặc ra đời, chớ để hư mục”. Ngài Ca Diếp nghe Thế Tôn dạy rồi, quỳ xuống lễ dưới chân Ngài thưa rằng: “Hay thay! Con sẽ ghi nhớ cung kính vâng lời theo Thế Tôn dạy”. (Đoạn văn trên tìm thấy trong “Truyền đăng lục, chỉ nguyệt lục, Truyền pháp chánh tông ký”).
Truyền pháp chánh tông ky quyển 1 bình rằng:
– Đức Thế Tôn truyền trao đại pháp cho ngài Đại Ca Diếp, lúc đó thuộc thời nào, có thể làm sáng tỏ được chăng?
– Đáp: Xưa, buổi đầu trên hội Niết bàn, Đức Như Lai bảo các Tỳ kheo: “Các ông không nên nói lời như vầy: “Như Lai có Chánh pháp vô thượng, đều giao phó cho Ma Ha Ca Diếp. Chính Ma Ha Ca Diếp xứng đáng là Bậc Đại y chỉ của các ông (Kinh Niết Bàn, q2)”. Đoạn văn trên đã làm sáng tỏ nghi vấn nêu trên rồi vậy.
Tuy nhiên, nói rõ hơn về tông chỉ này thì đối với mật tướng truyền trao của chư Thánh, trừ những người có dự trong thời ấy, ngoài ra không ai có thể thấu hiểu được; nếu lấy kinh điển nghiêm xét, thì thời gian ấy ắt là ở sau thời Pháp Hoa và trước thời Niết Bàn. Lúc Phật nói kinh Pháp Hoa thì ngài Ca Diếp tham dự cho đến thời Niết Bàn, tôi cho là khoảng giữa thời gian Phật đã nói hai kinh, chính khi ấy Thế Tôn đã giao phó đại pháp cho ngài Ca Diếp.
Nói đến sự truyền thiền, ban đầu từ Đức Thích Tôn trao cho ngài Ca Diếp truyền mãi về sau, đến ngài Bồ Đề Đạt Ma là Tổ thứ 28, hình thành nên hệ thống Thiền tông trực chỉ đơn truyền, Bồ Đề Đạt Ma là Sơ tổ của Thiền tông Trung Quốc.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma người Thiên Trúc, dòng Sát đế lợi (trong Tục Cao tăng truyện, mục Bồ Đề Đạt Ma truyện lại ghi ngài thuộc dòng Bà la môn, là thái tử thứ ba con vua Hương Chí. Nhân Tổ Bát Nhã Đa La đời thứ 27 được vua cha thỉnh vào cung cúng dường rồi nói pháp trong cung, nên thái tử mới được cùng Tổ diện kiến. Sau khi vua cha băng hà, thái tử nhường ngôi cho anh, theo Tổ Bát Nhã Đa La xuất gia). Truyền pháp chánh tông ký, q5 chép:
“Ngài vốn không thích ngôi vị vương hầu, chỉ muốn hoằng pháp lợi sanh, nhưng vì chưa gặp được Tôn sư nên từ lâu mong chờ đợi. Nay được hội ngộ với Tôn giả, tâm quyết định xuất gia, mong đầy đủ trí bi. Tổ Bát Nhã nhận lễ rồi, liền vì sư cạo tóc độ cho xuất gia, và dạy: “Đời trước ông đã từng nhập định Nhật quang tam muội, thông đạt các pháp, nay ta lấy pháp danh Bồ Đề Đạt Ma đặt cho ông”. Tổ hội các bậc Thánh tăng truyền giới Cụ túc cho sư. Ngay khi ấy, mặt đất rung chuyển ba lần, ban ngày mà có trăng sáng xuất hiện, đây là dấu hiệu báo trước tôn giáo sớm được chứng quả. Từ đó, người trong nước đều xưng gọi ngài là Bồ Đề Đạt Ma… Sau Tổ giao phó Đại pháp và dặn dò: “Ông hãy tạm giáo hóa trong nước, sau đến Trung Hoa, sẽ có nhân duyên lớn, đợi sau khi ta nhập diệt khoảng sáu mươi bảy năm, mới có thể hoằng dương Chánh pháp, chớ nên gấp rút, e phải gặp họa”.
Cho là “Sau đến Trung Quốc sẽ có nhân duyên lớn”, khi nghe lời ấy, sư từng hỏi Tổ Bát Nhã rằng: “Nơi ấy có bậc Đại sĩ kham pháp khí chăng?”. Tổ đáp: “Nơi ông giáo hóa sau này người đạt đạo nhiều không thể tính hết”.
Sau khi Tổ Bát Nhã Đa La nhập diệt, ngài nhớ lời Tổ dạy, tạm truyền giáo trong nước. Khi ấy, ngài tương ngộ với Tỳ kheo Phật Đại Tiên là môn đệ của Tổ Bát Nhã Đa La, hai người lấy lễ huynh đệ tiếp nhau, cùng hoằng dương Đại pháp, người đương thời đều xưng tán, cho là hai cửa cam lồ.
Ngài giáo hóa trong nước hơn sáu mươi năm, nhớ lời Tổ dạy, biết cơ duyên sang Trung Quốc đã đến, ngài đến viếng tháp Tổ sư và từ biệt huynh đệ, từ biệt hoàng thân, nói an ủi và nhắc nhở: “Mỗi người phải siêng năng tu các nghiệp lành, ủng hộ Tam bảo, ta đi chẳng lâu, khoảng chín năm sẽ trở lại”. Vua nghe lời từ biệt, không cầm được nước mắt, liền dạy người sửa soạn hành trang cho ngài, cấp một chiếc thuyền lớn, rồi đích thân hướng dẫn quần thần tiễn đưa ngài đến tận bờ biển, mọi người theo tiễn đều giọt vắn giọt dài, trải qua ba năm, mới đến được Trung Quốc, nhằm thời Lương Võ đế, niên hiệu Phổ Thông năm đầu 520…
Thuở ban đầu dựng lập Thiền tông, mọi quan hệ với giai cấp thống trị đều không mật thiết. Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma nhận sự tiếp đón lạnh nhạt của Lương Võ đế, bị ép buộc phải truyền đạo ở phương Bắc, Tổ ngồi quay mặt vào vách suốt mấy năm. Đến thời Ngũ tổ Hoàng Nhẫn, Thiền tông tuy đã có một tầm cỡ nhất định, nhưng chỉ có mặt ở một vùng ven thuộc Đông Sơn, vẫn chưa được lưu truyền rộng khắp. Mãi đến thời ngài Thần Tú, vì luôn được sự kính trọng của các vị đế vương triều Đường, nên Thiền tông liền vượt khỏi núi sâu tiến vào thành thị. Đây là bước thành công đầu tiên trên lĩnh vực chính trị của Thiền tông, nhưng chỉ mới được sự ủng hộ của giai cấp thống trị thôi chưa đủ, nó còn cần phải thích ứng với yêu cầu của giáo đồ bình dân.
Từ Tổ Hoàng Nhẫn về sau, Thiền tông chia làm hai nhánh (theo pháp thiền phân làm hai loại Đốn và Tiệm). Ngài Thần Tú chủ trương pháp Tiệm ngộ, được sự ủng hộ của giới thượng lưu. Nhưng pháp Thiền đó còn có những địa phương chưa biết đến, đặc biệt là pháp Tiệm ngộ, không thích hợp với yêu cầu tu tập trong lao tác bận rộn của giới bình dân. Ngài Huệ Năng thì chủ trương pháp Đốn ngộ, tuy chưa được sự ủng hộ của giới thượng lưu, nhưng vì pháp Thiền này giản dị, tiện lợi, lại được sự đồng tình của những người thuộc tầng lớp thường dân, vì thế được truyền bá rộng rãi.
Đến thời ngài Thần Hội, pháp môn Đốn ngộ đã đạt đến sự phát triển tột đỉnh, một phen áp đảo pháp Tiệm ngộ như mặt trời lúc giữa trưa. Đây là thắng lợi về mặt lý luận của pháp Đốn ngộ, đồng thời nhấn mạnh đến lối tư duy trực quán, giản dị, lấy sự khai phát tâm người làm nhiệm vụ của mình. Điều này thích hợp với tập quán tư duy và truyền thống của người Trung Quốc. Cũng lại được sự ủng hộ và nhận hiểu rõ ràng của giới quan lại cho đến bá tánh thường dân, đủ để cho Mã Tổ dựng lập tòng lâm, Bá Trượng chế tác thanh quy. Đối với nội bộ Thiền tông điều chỉnh lại mối quan hệ với nhau, tạo nên một bước tiến rõ ràng, tăng cường sự quản lý Tăng đoàn khiến nó trở thành chế độ hóa và luôn luôn đổi mới.
Thiền tông đã hòa nhịp với sự phát triển của xã hội, cũng đang tiến tới thời kỳ “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Thế là Thiền tông bước vào giai đoạn tràn trề sức sống.
Nhìn về phía văn hóa đặc sắc của địa phương, lại có cái nhìn khác về nhân tố các đoàn thể, các tông phái; do đây mới ra đời nhiều tông phái. Ra đời sau cùng là Ngũ Gia Thất tông: Tông Tào Động, Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn, v.v… cho đến Hoàng Long, Dương Kỳ nhưng trải qua thời kỳ lên cao chẳng bao lâu tiếp theo đó là nội bộ đã nhiều lần chỉnh họp. Ngay sau đó qua một phen đọ sức, cuối cùng chỉ còn có hai phái: Lâm Tế và Tào Động. Sở dĩ hai tông phái này đã đủ khả năng truyền thừa cho đến ngày nay, đặc biệt là tông Lâm Tế có ảnh hưởng rất lớn trong Phật giáo bởi vì nó vẫn giữ được pháp Thiền hoạt bát linh động, phong độ Thiền không câu nệ hình thức. Các tông phái thiền khác tuy rằng trên lý luận có chỗ để nhận hiểu, nhưng lại trọng đường lối mới, chạy theo chủ nghĩa hình thức, hoặc là quá thiên về lý luận. Như tông Pháp Nhãn, đem học thuyết Hoa Nghiêm dung nhập vào Thiền tông, nhấn mạnh thuyết “nhất thiết hiện thành”, “ngoài tâm không pháp”. Đây vốn là việc tốt, phù hợp với tông chỉ của Thiền tông, là đại biểu cho xu thế mới phát triển tư tưởng của Thiền tông. Nhưng sau này, những người trong tông môn Pháp Nhãn quá chú trọng đến vai trò của kinh điển, thế là lại biến thành chấp trước vào văn tự, vì thế đã không còn truyền thừa nữa.
Ngoài ra về mặt lý luận, có một số ít vị Tăng có học thức, lại thuận theo trào lưu xã hội nêu ra tư tưởng “Thiền-Tịnh nhất trí, hòa hợp thông tam giáo”, khiến Thiền tông càng có chỗ đứng tốt hơn, thích hợp với sự phát triển của xã hội. Ngay sau đó, mặc dù trong tình huống chưa được giai cấp thống trị xã hội ủng hộ mà vẫn có thể tiếp tục gây ảnh hưởng của mình.








