Thiền sư Pháp Thuận (916-991)

    Thiền sư Đỗ Pháp Thuận sinh sống trong khoảng thời gian đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ xây dựng chính quyền tự chủ. Khi ông vào tuổi thanh xuân thì người anh hùng dân tộc Ngô Quyền lập nên chiến công tiêu diệt quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (938). Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp xong nạn 12 sứ quân, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, dựng kinh đô ở Hoa Lư, tiến thêm một bước trong công cuộc xây dựng chính quyền độc lập tự chủ và bắt đầu định cấp bậc phẩm hàm cho các quan văn võ và cả trong hàng ngũ tăng đạo. Khi ấy Đỗ Pháp Thuận đã là một nhà sư tu ở chùa Cổ Sơn(1). Không biết rõ ông xuất gia đi tu từ năm nào, nhưng chỉ biết từ khi còn nhỏ ông đã thụ giáo nhà sư Long Thọ Phù Trì, vốn nổi tiếng là  bậc cao tăng.


    Đến năm 981, khi Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, đem quân đi đánh quân Tống xâm lược, diệt Hầu Nhân Bảo, đánh đuổi Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng, bắt được bộ tướng của địch là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân, lập nên chiến công lẫy lừng trên sông Bạch Đằng lần thứ 2 trong lịch sử nước ta thì Đỗ Pháp Thuận đã trở thành một bậc cao tăng có nhiều uy tín trong tín đồ Phật giáo, trong nhân dân và tiếng tăm vang vọng đến triều đình. Khi đó ông đã có nhiều đóng góp công sức vào việc phát triển đạo Phật đang thịnh hành và trong việc xây dựng đất nước. Ông còn là một nhà sư học rộng, biết nhiều, thơ hay và là người có tài kinh luân, sáng việc thời thế. Song ông chỉ muốn là một nhà tu hành, từ chối mọi điều phong thưởng chức tước, không màng vinh hoa phú quý như một số tăng sĩ thời bấy giờ. Lê Đại Hành rất kính trọng và thường gọi nhà sư là Đỗ pháp sư chứ không gọi tên..


     Tháng 10, mùa đông năm Bính Tuất (tháng 11.986) nhà Tống sai Tả bổ khuyết là Lý Nhược Chuyết và Quốc tử giám Bác sĩ là Lý Giác mang chế sách sang phong vương Lê Đại Hành. Để đáp lại, nhà vua cho trao trả bọn bại tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân và cho về nước. Vào năm sau, năm Đinh Hợi  niên hiệu Thiên Phúc thứ 7 (987), nhà Tống lại sai Lý Giác làm sứ giả sang nước ta lần thứ hai. Lý Giác vốn là người rất giỏi thi ca vì đã từng làm Quốc tử giám Bác sĩ. Biết sứ giả nhà Tống là người hay chữ, Lê Đại Hành  cử những người ngênh tiếp cũng phải là người học rộng, biết nhiều và giỏi đối đáp. Nhà sư tinh thông vạn quyển Đỗ Pháp Thuận được chọn đi nghênh tiếp sứ thần Lý Giác. Ông tạm bỏ áo cà sa, gánh vác trách nhiệm triều đình giao cho, một nhiệm vụ ngoại giao mang tính giữ gìn quốc thể.  Pháp Thuận quả đã làm tròn nhiệm vụ giao tiếp nghênh đón  khiến ccho sứ Tàu phải khen phục.


    Đại Việt sử ký tiền biên có chép sự kiện này: Khi Đỗ Pháp Thuận vâng chỉ Nhà Vua giả làm giang lệnh đón sứ giả qua bến Sách Giang (đoạn sông Hoàng Long ngang xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình hiện nay) thì Lý Giác trông thấy hai con ngỗng trời đang thong thả bơi trên sông, bèn ngẫu hứng ngâm :


                Nga nga lưỡng nga nga


                Lưỡng diện hướng thiên nha


                (Ngỗng, ngỗng hai con ngỗng


                Ngửa mặt nhìn chân trời)


    thì nhà sư Đỗ Pháp Thuận tay cầm bơi chèo, miệng ngâm tiếp hai câu :


                Bạch mao phô lục thuỷ


                Hồng trạo bãi thanh ba


                (Lông trắng phơi dòng biếc,


                Chân hồng đạp sóng xanh)


    Sứ giả Lý Giác vốn là vị Quốc tử giám Bác sĩ của nhà Tống, một ông quan vào hàng hay chữ và dạy người, lúc này vô cùng ngạc nhiên trước hai câu thơ ngâm đối đáp của người lái đò nước Nam. Lý Giác thầm cảm phục hai câu thơ ngâm tiếp không những bắt vận tốt mà ở đó còn có cả hình ảnh lung linh, màu sắc hài hoà và sự chuyển động của sóng nước, của đôi ngỗng trời đang êm đềm bơi lội giữa dòng sông mênh mang và giữa khoảng trời xanh rộng ngát.


    Về tới triều đình, sứ nhà Tống triều kiến vua Lê với một thái độ khác hẳn lần trước và rất khiêm nhường. Lý Giác thầm cảm phục dân nước Nam tài giỏi : một người lái đò bình thường mà đối đáp thi ca một cách tài tình với một sứ thần của Thiên triều vốn là một vị Quốc tử giám Bác sĩ. Ở sứ quán đất Hoa Lư, Lý Giác có làm một bài thơ gửi cho nhà sư Đỗ Pháp Thuận :


                Hạnh ngộ minh thi tán thịnh du,


                Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu.


                Đông Đô lưỡng biệt tâm lưu luyến


                Nam Việt thiên trùng vọng vị lưu


                Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch,


                Xa trì thanh chướng phiềm trường lưu.


                Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,


                Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.


    Bài dịch thơ :    Mong gặp thời bình được giúp mưu,


                Một mình hai lượt sứ Giao Châu.


                Đông Đô mấy độ còn lưu luyến


                Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu.


                Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm,


                Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu.


                Ngoài trời lại có trời soi nữa,


                Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu )1).


    Đỗ Pháp Thuận đem bài thơ này dâng vua Lê xem. Lê Đại Hành cho gọi Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu đến. Ngô Chân Lưu  xem xong bài thơ của Lý Giác, tâu rằng sứ giả nhà Tống viết bài thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống, và nói rằng ngoài bầu trời của Thiên triều (chỉ Trung Quốc) lại còn có bầu trời khác (chỉ nước ta) cũng soi sáng rực rỡ từ xa. Lê Đại Hành khen hay và ra lệnh ban thưởng cho Lý Giác rất hậu.


    Khi Lý Giác về nước, Lê Đại Hành còn sai Khuông Việt đại sư làm một bài từ(1) rất hay để hát tiễn. Bài từ này có tên là Vương lang quy (có sách viết là Ngọc lang quy) là một bài từ mẫu mực thời kỳ ấy và là một tác phẩm mở đầu cho thơ văn ngoại giao Việt Nam được người đời sau đánh giá cao. Lý Giác về nước đem mọi chuyện kể lại với vua Tống về những con người và những gì thấy được ở đất Đại Cồ Việt. Nhà Tống vô cùng khâm phục và không còn ý định xâm lược nước ta nữa.


    Thơ văn của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận chắc có  nhiều, song nay không còn được bao nhiêu. Ông chỉ còn để lại tập Bồ tát hiệu sám hối văn


    Ông còn một bài thơ chữ Hán đầy vẻ huyền bí khi Lê Đại Hành hỏi ông về vận mệnh đất nước dài ngắn ra sao.


    Nguyên văn chữ Hán bài thơ đó như sau :


                Quốc tộ như đằng lạc,


                Nam thiên lý thái bình.


                Vô vi, cư điện các,


                Xứ xứ tức đao binh.


    Dịch thơ :          Đất nước như dây mây


                Trời Nam thái bình đây.


    Ung dung ngồi đền các,


                Binh đao tắt hết ngay(2).


    Đại ý nói “Vận nước nhà như sợi dây mây, dưới gầm trời Nam được sống trong cảnh thái bình. Nhà Vua ung dung vô vi ngự nơi đền các, mọi chốn đều tắt binh đao”.


    Năm Hưng Thống thứ 3 đời Lê Đại Hành, tức là năm Tân Mão (991), Thiền sư viên tịch, thọ 76 tuổi. Tác phẩm ông để lại có cuốn Bồ tát hiệu sám hối văn, là một trong những tác phẩm sớm nhất bằng chữ Hán của các tác gia Việt Nam, tiếc rằng nay không còn nữa.






    (1) Chưa xác định rõ đâu.



    )1) Trích trong Những nhân vật lịch sử thời Đinh Lê. Trương Đình Tưởng.NXBVHDT,1998.



    (1) T là mt th loi văn có vn điu ca Trung Quc xưa do th thơ ngũ ngôn, tht ngôn và ca dao dân gian phát trin thành, thường được ph nhc để hát. Th t này phát trin mnh nht vào đời nhà Tng.



    (2) Theo Th viết Vit Nam văn hc s. Hoa Bng. Tri Tân s 25 ngày 28.11.1941