Trang chủ Văn hóa Thiền sư trả lời vua

Thiền sư trả lời vua

Vua Minh Mạng nhân một buổi ngự triều đã đưa ra một số câu hỏi cho vị Hoà thượng đó như sau:


1. Đạo Phật rộng lớn vô cùng nếu muốn tu học thì ta chỉ biế lấy lòng từ bi làm chính niệm nhưng khi tham khảo ở kinh Phật ta chỉ thấy có Phật Tam Thế Như Lai vậy thì hết thảy tiên giới đều có thể thành Phật có đúng không?


2. Bộ kinh Bát Nhã là một học thuyết cứu thoát chúng sinh ra khỏi mọi sự khổ ải vậy nó được bắt nguồn từ đâu?


3. Ta thấy chim hạc cũng chỉ là một loài vật chẳng hề có công đức gì vậy tại sao nó lại được đứng trên hương đài trong khi đó rùa là một loài vật thuộc tứ linh vậy thì nó phải mang tội chướng oan nghiệt gì mà phải đội bia đá ngàn năm?


4. Bốn vị Bồ Tát, tám vị Kim Cương bên trái là Thánh Tăng bên phải là Thổ Địa chẳng biết họ giữ chức vụ gì và họ cai quản về chuyện gì?


Hoà Thượng đáp lời: Bần tăng nghe kinh xưa có câu thơ:


Chỉ biết đình miếu nơi trần thế.


Biển trí mênh mông cũng tận cạn.


Cõi sinh hư không như mây gió.


Nói sao tận hết công đức Phật.


Bởi thế cho nên ta nói công đức Phật hằng hà sa số, vô lượng vô biên, muôn vạn kiếp tu cũng không thể suy ngẫm được hết hay lý giải được hết. Lẽ nào trong một hiện kiếp mà ta có thể tận hết công đức Phật cho nên người tu hành phải coi lòng từ bi là lớn nhất. Lòng nhân từ có thể cứu độ sự vật, lòng bác ái để quảng độ quần sinh. Công đức đó xây dựng cõi an lạc của chúng sinh và cũng chính công đức ấy xua tan mọi khổ ải của họ. Đức Phật lo chúng sinh lạc vào mê lộ mà không tỉnh ngộ sẽ bị chìm đắm vào vòng luân hồi trầm luân nên đã truyền dạy cho chúng sinh lòng từ bi và nếu chúng sinh thực hiện được nó sẽ thoát khỏi cõi mê. Bởi thế cho nên người giáo chủ tam thiên đại thiên thế giới người thầy của tam giới, người cha của bốn cõi cộng sinh vì muốn dẫn dắt chúng sinh như một đứa con thơ và đồng chung với họ thành một duyên nghiệp nên đức Phật mới xuất hiện ở thế gian. Sở nguyện và lời thề của đức Phật cũng chỉ vì nguyên do đó mà thôi.


Phàm người muốn nhập vào đạo Phật trước tiên họ cần phải coi lòng từ bi là chính niệm và phải luôn dốc lòng hướng đến mới có được thành quả. Lẽ nào một người đã hiểu được điều đó lại có tham vọng phù du như mây trôi trên sóng nước hay sao. Nay may nhờ đức hoàng thượng ban câu hỏi vấn đáp nên bần tăng mới mạo muội tâu bày ý thực. Thiết nghĩ đạo lớn vốn gốc tự nhiên mà tán rộng ra khắp mọi loài nhưng con người tuy có học vấn lại dễ nông cạn về sự hiểu biết nên đức Phật truyền dạy kinh kệ cũng vì ý đó. Bởi vì đạo lớn có sự huyền diệu ẩn trong vô tận, có sự tĩnh lặng thuần khiết ở trong hư không, vô vi như tên bắn ở trên cánh cung và nó đến từ chốn vô thuỷ mà ta không thể nào biết được nguồn gốc của nó. Đạo lớn có sự biến hoá ở trong huyền diệu, thấp thoáng như ánh chớp loè sáng trong bóng đêm tịnh mịnh. Nó là cội nguồn của quá khứ và tương lai, bao phủ cõi tận cùng mà ta không hề thấy nguồn gốc của nó. Ví dụ như lúc ta nhìn thấy mây vờn trên đỉnh núi nhưng khi ta bước lên đỉnh núi thì mây lại vẫn cách xa ta hay như ta nhìn thấy trăng ở đáy nước nhưng khi ta mò trăng đáy nước thì trăng lại tan ra. Tuy đạo lớn là hư vô tự nhiên nhưng trong khoảng không giữa thể và dụng hay giữa động và tĩnh của nó cũng có quy luật. Như kinh Phật xưa đã từng ghi: Tận hư không biến pháp giới cho nên trong cõi giới nhân gian mọi nơi đình miếu đều có Phật Đà La chí tôn thường trụ. Khi ta tham khảo ở bộ Hoa Nghiêm Kinh thấy có câu: Tam thế Như Lai, hết hảy tiên giới đều thành Phật chăng? Thực sự điều này đều do Tâm tạo ra chăng? Quá khứ-Hiện tại-Tương lai hay Phật tam thế đều bình đẳng duy nhất tâm và điều này còn có thể biểu hiện bằng câu đối:


Tứ thánh, Lục phàm do Tâm tạo.


Nhân duyên, Quả báo chẳng sai lầm.


Thực sự cả thập vạn triệu lời chỉ giáo Thiền định đến chân tơ kẽ tóc nhưng tựa hồ ta vẫn ở cách xa ngàn núi bởi vì tin Phật là ở Tâm và Tâm cũng là Phật. Do Tâm của chúng sinh thường biến đổi theo hoàn cảnh cho nên họ thường điên đảo mộng tưởng. Bởi vậy cần phải có ngọn đuốc sáng dẫn đường cho họ thoát khỏi mê lộ, cần phải có thuyền từ bi đưa họ thoát khỏi bể khổ và tiếp dẫn họ đến bến bờ của Phật pháp. Chính vì điều này cho nên đức Phật đã dùng trí tuệ để minh chứng cho bộ kinh Bát Nhã vậy. Đức Phật muốn chúng sinh hiểu được nguyên lý phúc do Tâm sinh để họ có thể tĩnh lạc vào Thiền định rồi hồi quy về đạo lớn. Thực sự bộ kinh Bát Nhã đã mở ra một con đường giác ngộ qua những chuẩn mực ngàn vàng. Nó đã trị căn bệnh trầm kha cho chúng sinh bằng liều thuốc hay, dìu dắt họ tương kiến đức Phật Như Lai. Đó cũng chính là hình ảnh đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cho chúng sinh qua lời yết chú tựa thần minh ám hợp: Yết đế, Yết đế, Ba la tăng Yết đế. Việc lưu tâm giáng phúc cho chúng sinh và mong muốn họ luôn dốc lòng từ bi khiến đất nước Phật giáo an vui, nhân dân an lạc chính là tôn chỉ của bộ kinh Bát Nhã. Như trong kinh Bát Nhã có câu chú: Gia la phạt đa, Gia la phạt đa, Gia la tăng phạt đa đã mang sức truyền cảm đầy tâm linh khiến chúng sinh tỉnh ngộ. Phàm khi ta tận tâm niệm câu chú này dù vào buổi sáng hay buổi tối thì hết thảy mọi tai ương nơi trần thế sẽ tiêu tan. Đây cũng chính là nguồn gốc ra đời của bộ kinh Bát Nhã qua tôn chỉ cứu khổ cho chúng sinh.


Con hạc tuy chỉ là một loài chim chẳng hề có công đức gì nhưng nó lại được đứng trên hương đài chính vì nó biểu tượng cho lòng thành khẩn hướng thiện để mong chuyển cảnh giới và để có được tam bảo trong cõi sinh dương thế. Bởi vậy từ xưa đến nay chim hạc tuy là một loài chim nhưng vì có thiện niệm nên nó vẫn là biểu tượng của chúng sinh hướng đạo. Trái lại con rùa là một loài xếp trong tứ linh chẳng hề có tội lỗi gì đáng phải oán trách nhưng chỉ vì nó dấu mai dưới làn nước biểu tượng cho việc lẩn tránh ánh sáng quang minh nên tuy nó là linh vật nhưng tâm mang lòng đố kỵ. Bởi vậy con rùa luôn phải đội bia đá ngàn năm những mong xoá đi cái tà tâm đố kỵ đó.


Ta thấy bốn vị Bồ Tát đứng ở bên trên Đức Thế Tôn được thờ tự nơi đền miếu thể hiện đức độ để hành xử, lấy uy nghiêm để chế ngự khiến bốn cõi đều quy chầu chư Phật chính là vị trí của Bồ Tát thường an cư. Bát Bộ Kim Cương nắm lấy chức trách giáng phục quần ma là để tăng sự uy nghiêm bên trong và ngoài cõi giới thờ tự. Chức trách này nhằm bảo vệ vị trí trung tâm hương đài có sự thông linh không bị tà ma quấy nhiễu đồng thời biểu hiện sự chính trực công minh. Phía bên trái thể hiện sự hư không chính là vị trí của các vị Thánh Tăng. Phía bên phải biểu tượng đèn nến chiếu sáng tấu sớ chính là vị trí của Thổ Địa. Sự sắp xếp này phù hợp trật tự cõi giới Phật pháp đồng thời tạo ra sự cảm ứng thông linh giữa trời và người. Ngoài ra triết lý của sự sắp xếp đó mang chức trách và tư tưởng thống nhất chứ con người ta không thể tuỳ tiện đặt ra được.


Đức Tổ sư Đạt Ma đến từ đất nước Thiên Trúc truyền lời giáo huấn những mong xoá bỏ mê tình của thế nhân nên Tổ sư đã phát tâm rạng ngời cõi Đông thổ. Vốn bản thân không hề có oán nghiệp nhưng ở biển Nam gặp họ Dương thế là thần lý mong giải tà độc ở tâm tất là ách của phượng hoàng. Thực ra mây đen bay tới cũng chưa đủ xoá đi ánh sáng quang minh của vầng Thái Dương. Thần Tông đắc đạo của Quan Âm rồi truyền giáo ở núi Sài nên đã mở ra con đường giác ngộ. Vốn bản thân đã có thần hiển ứng ở cõi Nam Giao về linh cảm đã có duyên hệ luỵ từ tiền kiếp nhưng chốn non xanh nước biếc mượn thân gửi loài hổ rồi cảm niệm hoá hình tất mãnh hổ là loài kỳ dị mới vài bước đã mong bay bổng thực là một tay chẳng che nổi trời xanh. Lẽ nào đã có những chuyện như vậy mà lại dám đàm thoại chuyện đạo của hai vị tổ sư hay sao.


Ta thấy hai ông Hộ Pháp cũng có ý nghĩa riêng biệt như ông Hộ Pháp ở bên phải là ông Thiện tức là vị thái tử độc nhất của Lý vương. Ông là người luôn có lòng từ bi bố thí vì thương xót nhân dân tật khổ nên đã gắng tâm vượt bể cầu đạo. Ông Thiện gặp phải người em tham lam khoét cả mắt mình mà không hề hiềm khích thực là một con người toàn đủ về đạo đức khiến nhân dân đội ân giống như một vị Bồ Tát hoá thân. Thực là bậc chí thiện mới có thể nương tựa nơi đức Phật. Đứng ở bên trái là ông ác thì ban đầu tuy ông là con người bạo ngược nhưng ông vẫn luôn mong đợi thời cơ hành xử cho được việc thiện. Tuy nhiên việc tự ngộ ra Long cung có vô số châu báu nhưng việc dũng cảm cải ác để cái thiện tự sinh thì đó mới chính là phương tiện từ bi của pháp môn.


Phàm thiết lập ở nơi vị trí tiền đường ẩn hiện hai khám Quan Âm. Vị Quan Âm thứ hai với thân trước che kín chính là người công chúa thứ ba con của đức vua Triệu Trang Vương. Công chúa vốn là người ưa thanh tĩnh trang nghiêm lại thấy thế giới có nhiều điều vô thường nên đã quyết chí một lòng vào núi Hương Sơn để thiền toạ. Khi thấy đức vua cha bị lâm vào bệnh hiểm nghèo công chúa đã tự cắt tay mình để cứu cha thoát khỏi căn bệnh hiểm nghèo. Bởi vậy nhân thế thường tụng câu đa lợi và đặt hiệu là cát tường công chúa. Điều này cũng chính là sự cảm ứng đức Phật Như Lai hay ý nghĩa của nó là vì sự trân tu nên đã có chính quả thành Phật. Nếu như sau này việc tu đạo được chuyển kiếp từ nữ giới thành nam thì việc giả mượn cái thân xác phàm trần để tu đắc đạo mới là thực. Tuy nhiên ta thấy ngày công chúa hoá thân ở chùa Vân thì sự giác ngộ giử vào cõi không đã thành một con đường độc đạo hay nó cũng chính là sự hiển ứng của diệu quyết viên thông và điều này không hề phương hại tới việc chuyển kiếp một cách hoàn mỹ.


Bần tăng trộm nghĩ Hộ Pháp được công minh mới là Hộ Pháp. Tuy ban đầu họ có sự thiện-ác khác nhau nhưng cuối cùng họ lại quy đồng nhất về một con đường đó chính là đạo tâm. Khi hai vị Hộ Pháp đồng quy về một lối tất thiện có thể dùng là đương nhiên nhưng ác cũng vẫn có thể chuyển hoá. Quan Âm đồng cảm ứng mới là Quan Âm. Tuy về hình dáng Quan Âm thực giả có khác nhau nhưng tâm của họ lại chuyên nhất phụng sự Phật pháp bởi vậy chỉ là một Quan Âm chứ không phải là hai bởi vì thực tướng có thể đạt tới thành tựu chính quả mà giả tướng cũng không hề phương hại tới kết quả. Dựa vào Pháp Tính Thổ vô tướng vô vi để thanh tĩnh và dựa vào Pháp Thân Phật thì đó chính là Phật Đại Nhật Như Lai.


Đại Thế Chí là người không biết tới chuyện tửu sắc ở dương thế nhưng duy chỉ có chuyện bận bịu con cái cũng đủ khiến bản thân phải khóc như cá nằm trên cạn. Ví thử nếu không có chuyện hộ trì con trẻ thì cũng sẽ đánh mất tâm từ bi bởi vậy hình tượng Quan Âm bồng trẻ thì đó là đứa con nuôi được hộ trì. Nếu ta coi con trẻ là căn gốc của sự ân ái nơi trần thế do duyên nghiệp sinh ra vậy thì công đức vẫn đề huề khi có nước tẩy trần bởi vì khi tụng kinh gõ mõ rồi làm phép rảy nước thì đó cũng giống như cây khô gặp nước vậy. Hình tượng Đại Thế Chí tay cầm bình nước thì đó chính là nước cam lộ chứ đâu phải bình rượu thù tạc khi gặp mặt. Bởi vì pháp thân vốn căn bản là tĩnh lặng chứ tuyệt nhiên không hề biết tới tư tình tửu sắc thì đó mới chính là bậc trân tiên thành Phật lẽ nào lại có chuyện dụng tình tới mức phóng đãng hay sao.


Di Lặc Bồ Tát chuyên tâm quy giới theo Kinh Bát Nhã không tăng không giảm, cam chịu vượt qua mọi gian khổ đó chính là pháp hoạ đăng. Không tìm hiểu chuyện nhân tình thế thái mà duy nhất đồng quy về thiên cung cực lặc để tâm từ bi được an toạ đồng thời dung nhan tự giải thoát khỏi cơn đói thì tâm tự nhiên sẽ rộng rãi thoáng đãng. Bởi thế cho nên phúc tướng Di Lặc Bồ Tát ngày xuất gia thành Phật trong vườn Viên Lâm có thể đoán biết được từ ngày sinh và điều này cũng đủ thanh thoát tu luyện tới cõi cực lạc. Khởi niệm thấy cõi Niết Bàn vô thường rồi xoá bỏ tục trần để xuất gia tự thấy khí thanh thần sáng rồi đạt tới cảm giới tâm hư không để cầu đạo. Bởi thế cho nên không biết tới việc hình hài khô héo tiều tuỵ qua sáu năm tu luyện tuyết sương chốn thâm sơn cùng cốc có ngộ giải cơ lý hay không thì cũng đủ bỏ đi lỗi luỵ khổ vẩn đục nơi trần thế. Quả thực nước trong sẽ sáng tựa gương soi nếu không vấy đục vì trần thế thì đó là bậc trân tiên đắc thành Phật. Lẽ nào cần phải biện giải nhiều lời về sự giống hay khác nhau của sự thành công hay sao.


Mở cuốn kinh Phật ta thấy có lý thuyết giải oan. Thuyết giải oan cứu khổ cho các tội nhân vậy đó là một luận thuyết chỉ dựa vào bằng cớ hư vô hay sao? Bởi vì bản thể tự tính viên mãn nên việc ngăn ngừa nghiệp chướng khởi nguồn từ vô tâm. Lẽ nào đã mắc vào oan nghiệp rồi mới lại biện giải về việc giải cứu hay sao? Sau khi bể dục cuồn cuộn nổi sóng phong ba thì tình sinh ái, ái lại sinh dục nên hết thảy tham-sân-si kéo theo vạn kiếp luân hồi từ đó mà ra thậm chí oan trần kết thành lục căn oan gia. Đức Phật nhân từ thương xót hết thảy chúng sinh trầm mê nên đã đưa ra lời yết chú giải oan qua lời kinh Lục Tự Minh Chú giử lại nơi cửa thiền. Hết thảy mọi người đều ca ngợi những lời yết chú của Lục Tự Minh Chú bởi vì nó như con thuyền vượt qua biển lớn oan gia của nghiệp chướng. Khi ta đã xoá được lục căn rồi hướng về lục ngộ sẽ thoát được oan gia đồng thời đăng nhập vào bến Niết Bàn. Nếu tự bản thân ta đã ngộ thấy trân cơ thoát xác vậy cái lý phá bỏ Địa Ngục để giải thoát tội nhân là khó tin lắm hay sao? Bởi lẽ bản thể của đạo là bình đẳng vốn nguyên không phải chư Phật hay chúng sinh sắp đặt ra cho nên đã có Địa Ngục tất sẽ có cách phá Địa Ngục để giải thoát tội nhân.


Thực ra điều này giống như ngọn đèn soi rọi vào cõi u tối bởi vì sự nhận thức dựa vào căn gốc và căn gốc lại dựa vào trần thế. Tam duyên hoà hợp thế là ngàn dặm bóng tối từ đó lại sinh ra để kết thành mười tám tầng Địa Ngục. Tâm niệm lời diệu quyết của bộ kinh Di Đà chính là trân ngôn phá ngục vô biên nghiệp chướng nơi trần thế. Chỉ có như vậy ta mới có thể ta mới nhìn thấy ngọn đèn xua tan bóng đêm bởi vì tĩnh lặng tam nghiệp sẽ minh chứng được tam không và biến Địa Ngục thành đài sen ngát hương. Tự ngẫm về những tấm gương siêu độ người thân trong cùng một kiếp thì trong vận tâm có hình ở bên ngoài hết thảy mọi sự việc bởi vì chư Phật và chúng sinh không hề có khác biệt. Vậy khi ta nghe ai đó nói về chuyện thực hư, nguyên lý sắc không mà không hề có bằng chứng thì liệu có đáng tin điều đó hay không?


Than ôi! đạo lớn ở ngay trước mắt nhưng ta chỉ chưa lĩnh hội được hết mà thôi. Kẻ sĩ muốn cầu nơi đạo Phật trước tiên họ cần thấu hiểu tinh hoa về diệu tâm trong kinh điển rồi thành ý khai cứu tàng kinh Phật Giáo. Tuy họ chưa bước lên bậc thang thần thông của đạo Phật nhưng họ cũng sẽ khai mở được tai mắt hướng Phật của người trong trần thế và đó cũng chính là cách bước gần tới cõi của đạo vậy.


Khâm phụng Thánh chỉ. Thánh thiên tử đắc ngôi từ căn gốc vua Nghiêu, khôi phục vương triều từ thềm vua Vũ, ban đức rộng khắp gần xa, khai sáng phong tục để uy trấn cõi Nam Việt. Bốn cõi chầu về để nối tiếp lịch đại Đinh-Lý-Trần-Lê thành một thể thống nhất.


Nay khâm phụng đức Phật với tâm đức độ tạc khắp đất trời với lòng nhân từ ban khắp trong và ngoài cõi Nam Việt. Để lợi vật thương dân triều đình ta đã xây dựng nhiều đình miếu chùa chiền thờ tự rồi lập chế độ khoản đãi các tăng ni qua hình thức độ điệp (giấy thông hành). Cấp phủ có quan về Phật Giáo quản lý còn cấp huyện có các tăng già đạt đạo phụ trách. Những việc làm như vậy giống như mây hoa giữa đất trời khiến đời đời con cháu thêm nhân thọ đồng thời linh căn tâm linh nhân gian được bền vững và mọi nhà mọi người đều vui vẻ như đón mùa Xuân về. Nay kính.