Trang chủ Văn học Tùy bút Trở về một hồ sen

Trở về một hồ sen

84

Đó là câu chuyện của cụ tổ tôi. Một người Hoa bôn ba luân lạc. Giàu sang. Quyền thế. Nhưng tha hương. Cô độc. U uẩn. Điều trối trăn duy nhất của cụ tổ là được chôn bên cạnh một hồ sen cô tịch.


 


Tôi được mẹ chở đến thăm mộ tổ vào một chiều đầu mùa thu. Ẩn dưới ánh sáng mềm ảo của vòm thông xanh ngát là ngôi mộ vắng lạnh, u trầm. Rêu phong phủ đầy. Thời gian loang lổ. Cái linh ảo chập chờn qua làn khói trắng. Và trước mặt ngôi mộ là một hồ sen. Trong mát, thơm lành. Như thoang thoảng cái hương vị cô tịch, thanh thoát.


 


Đi cả cuộc đời tôi cũng không thể quên buổi chiều hôm ấy. Rùng mình. Ớn lạnh. Dự cảm của một đứa bé con nói cho tôi biết rằng, có một huyền ngôn xa xăm nào đó đang vọng về.


 


Đó là câu chuyện của một ngày rất xưa…


 


Ẩn giữa một khối hỗn độn của ký ức. Có khi nó hiện về như một cơn mơ. Có khi nó bị tôi quên lãng như đã quên lãng bao nhiêu chuyện khác trong cuộc đời. Ngổn ngang. Bộn bề. Chẳng phải ta đã không mua nổi một giây phút chững lại để nhìn vào hố thẳm của chính mình hay sao? Chẳng phải ta đã hối hả sống như một kẻ phụ tình với quá khứ?


 


Ngày cứ nối ngày như thế. Nếu không có một hôm giông bão…


 


Một hôm có cảm giác bị quăng vào cái chôn hoang tàn, đổ vỡ, lợn cợn nào đó, không một lối ra. Giấc ngủ liên tục hỗn độn bởi tiếng xe phóng vun vút ngoài phố. Gió liên tục rít qua cửa sổ, thổ vào lòng tới tấp một nỗi bất an. Tôi biết chắc mình chẳng thở nổi dưới góc mùng bức bối. Ngọn lửa nào thiêu đốt giấc yên lành rồi. Ngọn lửa nào đẩy tôi ra khỏi giường như một kẻ mê ngủ, vô thức.


 


Tôi đã mở cửa ra khỏi nhà lúc đồng hồ điểm bốn giờ sáng. Giữa lúc con phố còn say ngủ. Giữa lúc đêm chưa tan. Giữa lúc bình minh mới chập chờn tỉnh giấc. Ngọn gió đầu tiên táp vào mặt tôi như dịu bớt cơn lửa đang cháy rừng rực. Thì ra không khí đầu ngày thở bằng những làn gió rất trong.


 


Q có lần từng hỏi: “Em thích buổi nào nhất trong ngày?”. Tôi trả lời không suy nghĩ, không toan tính: “Buổi sớm!”. Trả lời là để trả lời. Nhưng hôm nay tôi mới biết tại sao.


 


Chạy như một kẻ mộng du, một kẻ hoang đãng, tôi nghe rõ bước chân mình trên con đường tinh khôi buổi sớm. Nó đang đáp trả hay giễu cợt tôi? Một kẻ đi hoang không mục đích, không chốn đến. Mà có cuộc đi nào có chốn đến đâu? Chỉ là loanh quanh rồi trở lại bến cũ. Mỗi người có một bờ bến cũ. Còn bờ bến cũ của tôi? Phải rồi! Bến cũ của tôi là một ngày lên tám. Là một buổi chiều đầu thu. Là một hồ sen trong mát, yên lành.


 


Q lại có lần hỏi tôi: “Em thích loài hoa nào nhất?”. Tôi là không do dự, không đắn đó: “Hoa sen!”. Q cứ mãi bâng khuâng thắc mắc. Còn tôi, mỉm cười một nụ cười. Trả lời là để trả lời. Mơ hồ. Ám ảnh. Thì ra là như thế. Bây giờ tôi mới hiểu.


 


Con đường đi đến vòm thông, đến ngôi mộ, đến hồ sen không hẳn đã thay đổi. Nhưng nó cũng không là con đường xưa cũ. Thông rậm rạp hơn. Rêu sẫm màu hơn. Nên gió vi vút, âm u hơn.


 


Tôi đã thắt lòng. Thắt lòng đến hụt một nhịp tim. Sen đang cuối mùa. Sen không cháy sáng. Sen không rừng rực. Thấp thoáng giữa hồ là vài đoá sen cuộn mình e ấp. Sắc hồng đang bắt đầu lên hương.


 


An nhiên. Và thanh thoát. Mặc kệ cuối mùa. Mặc kệ cái vắng lặng không người thưởng thức.


 


Tôi lại rùng mình. Cái rùng mình của ngày còn bé? Không phải! Cái rùng mình của hỗn độn. Cái rùng mình của tỉnh thức. Tôi đã biết tại sao Q và mình không thể. Tại sao con người vẫn chao đảo trước những cơn xô xát. Tại sao cuộc đời vẫn trăn trở trước những nỗi vô thường. Hình như sen mỉm cười. Cái mỉm cười của Tôn giả Ca Diếp vào một ngày Đức Phật thuyết pháp trên núi cao. Vô ngôn. Chỉ một cành sen thay lời…


 


Không biết nữa. Tôi không biết mình là ai. Chỉ một khao khát là được hái đoá Tịch Liêu ấy. Lại bàn tay của kẻ mộng du đẩy tôi xuống hồ như đã đẩy tôi đến đây trong một buổi sáng nguyên sơ.


 


Bước chân đầu tiên đặt xuống hồ tôi mới biết mình không mơ. Nó không bao giờ là giấc mơ! Bùn lầy đã giữ bàn chân tôi lại. Không thể nhúc nhích. Không môt người cứu hộ. Chỉ có mỗi mình tôi. Bùn lầy khiến tôi biết mình đã sa, đã chững, và đã lặng lại! Hái sen thì ra không phải dễ. Vậy mà người ta cứ ngỡ đóa Vô thường nằm trong tầm tay. Cứ ngỡ đoá Giải Thoát dễ dàng chạm lãnh. Sai rồi! Một con bé non nớt như tôi phải biết tập hái sen. Phải hái sen từ lầy lội, từ mồ hôi, từ khao khát, từ vô vọng, từ kiên nhẫn… Từ tất cả những trải nghiệm của một đời.


 


Cuối cùng tôi cũng đã lội qua cõi lầy đó để chạm đến đoá Từ Bi. Mặc cho tay chân vấy bẩn. Mặc cho áo quần lem luốc. Đoá sen đang rực hồng, đang lung linh trong bàn tay tôi. Thanh khiết và thoang thoảng cái hương vị cô tịnh ngày xưa…


 


Tôi đã đặt lên mộ cụ tổ đoá sen ấy. Có phải đó là đoá hoa mà cả đời cụ bươn bả? Có phải là đoá huyền ngôn của một ngày cụ trối trăn?


 


Không biết nữa! Cả tôi cũng chỉ là một kẻ ám ảnh, day dứt đi tìm.


 


Đã mấy trăm năm trôi qua rồi. Đã mấy mùa sen tàn nở.


 


Tôi trở về. Con đường bắt đầu vương những tia nắng đầu tiên. Thành phố bắt đầu vọng những thanh âm đón một ngày mới.


 


Hái một đoá sen, tôi biết bờ giải thoát với mình vẫn còn xa lắm. Nhưng hái một đoá sen, tôi hái được sự yên định của một cõi tâm hồn.


 


Cuộc sống sẽ còn vướng những trăn trở, bộn bề, sẽ còn chảy giữa những mê muội, hoang tưởng. Nhưng tôi biết mình sẽ trở lại. Trở lại bến cũ. Trở lại một hồ sen.