Vì sao lại như vậy? Bởi vì Niết-bàn có Chính Kiến, Chính Chí, Chính Ngữ, Chính Nghiệp, Chính Mệnh, Chính Phương Tiện, Chính Niệm, Chính Tam Muội. Chúng là nguồn cội của Niết-bàn, là động lực khiến cho nhãn sinh, trí sinh, các trói buộc dứt hết, rốt ráo đạt đến đích ngay ở đây và chính lúc này.
Trung đạo thì là không dính mắc, không chấp thủ các quan kiến về thường-đoạn, hữu-vô, xa rời tất cả trạng thái khổ hạnh hay khoái lạc; viễn ly mọi nhận thức nhị biên phân biệt. Trung đạo theo quan điểm của Tăng Nhất A Hàm là con đường không tuyệt đối hoá một thái cực nào, ly khai tất cả mọi ý niệm chấp trước; không thái quá, không bất cập và nhờ vậy phiền não Tham-Sân-Si được đoạn trừ tận gốc rễ. Hành giả biết rõ: Sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, gánh nặng đã buông xuống, đạt được giải thoát giác ngộ.
Tư tưởng trung đạo được bàn đến ở đây là tư tưởng của Nhất Thiết Hữu Bộ, mang ý nghĩa “thực tại luận”, cho thấy: Niết-bàn không phải là một cảnh giới nào thuộc phạm trù siêu hình mà nó hiện hữu chỉ bởi sự vắng mặt của phiền não; chỉ là sự đoạn trừ sạch sẽ 5 thượng và 5 hạ phần kết sử, đạt được trạng thái tịch tĩnh sáng suốt, trong ấy nhãn sinh, trí sinh và vô lượng pháp lành sinh. Qua phân tích trên thì ta nhận thấy rõ rệt quan điểm của Hữu Bộ là viễn ly, xa lìa, không mắc kẹt vào hai thái cực, hai cực đoan khổ hạnh-khoái lạc. Khi tu tập trung đạo thì nhất định đạt được giác ngộ – Niết-bàn. Đây chính là cặp nhân trung đạo và quả trung đạo.
Vậy thế nào là trung đạo? Thế nào là nhân trung đạo và thế nào là quả trung đạo?
Trung đạo là con đường chính đạo gồm tám ngành: Chính Kiến, Chính Chí, Chính Ngữ, Chính Nghiệp, Chính Mệnh, Chính Phương Tiện, Chính Niệm và Chính Tam Muội.
Nhân trung đạo nổi bật hai vấn đề: thứ nhất, nhân trung đạo là sự đoạn trừ phiền não; thứ hai, nhân trung đạo phải là sự tu tập Bát Chính Đạo. Thực chất của vấn đề này, nếu ta nhìn nhận kỹ thì sẽ thấy có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vì sao? Vì để đoạn trừ hoặc tập kết sử cần phải dùng phương tiện, phải tu tập Bát Chính Đạo và khi hành Bát Chính Đạo thì nhất định quét sạch trơn phiền não khiến cho chúng không còn dư tàn.
Đức Thế Tôn, Ngài dạy: Chúng sinh sở dĩ sinh tử luân hồi là bởi bị phiền não khuấy động, thiêu đốt. “Tham là bệnh, sân giận cũng thế; xan lẫn, tật đố là bệnh cũng rất nặng; phiền não nung nấu, kiêu mạn cũng sâu, huyễn nguỵ chẳng chân thật; không hổ không thẹn, chẳng thể xa lìa dâm dục, làm bại hoại sự ngay chính; mạn và tăng thượng mạn cũng lại chẳng bỏ”. Lại nữa: “…vì đệ tử của Như Lai tham đắm lợi dưỡng, chẳng hành đúng pháp, chẳng phân biệt pháp, huỷ lời dạy của Thế Tôn, chẳng thuận theo chính pháp. Đã huỷ lời dạy của Thế Tôn thì không thể đến được Niết-bàn” (Tăng Nhất A Hàm, phẩm Tàm Quý, kinh số 3). Do đó, nếu không diệt trừ phiền não, nếu không tuân theo lời dạy của Như Lai thì làm sao đạt được trung đạo? Làm sao thấu được chân lý và làm sao tới được Niết-bàn? Kinh Pháp Cú số 270, Đức Phật dạy:
“Ai đoạn được năm điều
Bỏ hẳn được năm điều
Siêng năng tu năm điều
Ta gọi rằng người ấy
Vượt qua khỏi tứ lưu”.
Ở mặt tiêu cực, năm điều cần phải đoạn, phải bỏ là năm thượng phần và năm hạ phần kết sử. Nhờ đâu mà có thể đoạn trừ hết các kết sử trên? Ấy chính là phải tu tập Bát Chính Đạo. Tu tập Bát Chính Đạo thực chất là quá trình tu tập Tam học vô lậu Giới-Định-Tuệ. Hay nói một cách khác hơn, nếu dùng tính chất bắc cầu trong toán học (A = B; B = C ð A = C) thì tam vô lậu học chính là trung đạo. Trong đó hai chi Chính Kiến, Chính Chí thuộc tuệ; ba chi Chính Ngữ, Chính Nghiệp, Chính Mệnh thuộc giới; Chính Niệm, Chính Tam Muội thuộc định và Chính Phương Tiện thuộc đẳng phần Giới-Định-Tuệ.
Chính kiến tức là sự thấy biết đúng đắn; từ thấy biết đúng đắn dẫn đến suy nghĩ không mê lầm; từ suy nghĩ không mê lầm lại giúp cho sự thấy biết càng đúng đắn hơn. Hai phần này quan hệ qua lại bổ trợ nhau, thuộc phần TRI. Sáu chi còn lại, tức Giới và Định thuộc HÀNH. TRI và HÀNH cũng có mối liên hệ biện chứng và có tác dụng tương hỗ. Đã TRI thì phải HÀNH, có hành thì TRI mới thành sự thật. HÀNH phải có TRI thì HÀNH mới không sai lạc. Nói cách khác, TRI như đôi mắt, HÀNH như đôi chân. Có đôi mắt sáng, có đôi chân khoẻ mới có thể đến được đích mà mình mong muốn. Lại nữa, TRI-HÀNH như đôi cánh, nhờ đôi cánh ấy, hành giả vượt lên khỏi bốn bộc lưu: Dục bộc lưu, Hữu bộc lưu, Kiến bộc lưu, Vô minh bộc lưu. Bốn dòng thác lũ ấy không thể nhận chìm được hành giả và hành giả tới được bờ kia – Niết-bàn.
Nói tóm lại, nhân trung đạo chính là sự đoạn trừ tất cả mọi vọng hoặc phiền não, các kết sử trói buộc bằng cách đi theo con đường trung đạo, bằng cách tu tập bát chính đạo. Khi các lậu nghiệp đã rơi rụng không còn thì hành giả đạt được quả trung đạo như kinh số 3 phẩm Tàm Quý có nói: “Diệt được tham, dâm, sân giận…, mạn và tăng thượng mạn thì được trung đạo nhãn sinh, trí sinh, các trói buộc dứt hết, đến được Niết-bàn”
Thế nào là nhãn sinh? Nhờ nhân trung đạo, đoạn hết hoặc tập thì tuệ nhãn phát sinh. Ấy là sự nhận thấy như thực, như lý bản chất các pháp là KHÔNG, là không có chủ thể hằng hữu, là vô ngã, là giả hợp, là duyên sinh. Trên cơ sở tuệ nhãn này, nhờ quán chiếu liên tục mà được Phật nhãn. Phật nhãn là tối thắng, là vi diệu hơn cả, chính là biểu hiện cho Nhất Thiết Trí. Đó là nhãn sinh
Thế nào là trí sinh? Đây là năng lực thấy biết về hai đế chân và tục, bởi vô minh phiền não che lấp mất chân trí khiến cho năng lực này không hiển lộ. Qua đó cũng thấy được bát chính đạo là con đường thù thắng, siêu việt để đoạn trừ vô minh, phát sinh tuệ giải thoát, chứng nhập Niết-bàn. Đó là trí sinh.
Thế nào là các trói buộc dứt hết? Nhờ nhân trung đạo mà năm thượng và năm hạ phần kết sử không còn; nhờ nhãn sinh, trí sinh nên các triền phược rơi rụng. Do đó thắp lên ngọn tuệ đăng làm cho vô minh hết và minh sinh, thoát ly vĩnh viễn khỏi ba cõi sáu đường.
Thế nào là đến được Niết-bàn? Niết-bàn là cảnh giới không có mặt vô minh, là trạng thái vắng lặng tịch tĩnh, ly khai hoàn toàn đối với tham, sân, si, mạn, nghi…; xa lìa tất cả phiền não, tất cả mọi sự chấp trước điên đảo vào hai thái cực, vào nhị nguyên đối đãi. Như vậy, từ đây có thể nhận thấy ngay rằng bất cứ lúc nào tâm ta không phiền não thì khi đó Niết-bàn xuất hiện. Trái lại, khi vô minh dấy khởi thì Niết-bàn đâu còn. Bởi vậy, Niết-bàn ở đây thật linh hoạt sống động, không phải là một thứ Niết-bàn “chết” mà là sự biểu đạt qua thực thể hiện hữu là con người ngay đây và chính tại lúc này.
Qua những trình bày sơ lược trên thì tư tưởng trung đạo trong Tăng Nhất A Hàm chính là việc sống, việc thực hiện con đường Bát Chính Đạo. Đó là viễn ly hai thái cực khổ hạnh và khoái lạc, xa lìa mọi chấp trước nhị biên để đạt được trạng thái giải thoát thực tại. Tư tưởng này về sau có lẽ được các nhà Đại Thừa triệt để khai thác, làm thăng hoa, phát triển rực rỡ qua tác phẩm “Trung Luận” của tổ Long Thọ (Nàgajuna). Trung đạo ở đây chính là lý “Trung thật”, là duyên khởi vô tính, là siêu việt hết thẩy tướng, là thực tướng của pháp giới, là Phật tính được biểu hiện qua “tám cái bất” hay qua kệ tụng:
“Chúng nhân duyên sinh pháp;
Ngã thuyết tức thị không
Diệc vi thị giả danh;
Diệc thị trung đạo nghĩa”
mà sau này ngài Trí Giả Đại Sư đã căn cứ vào đó lập ra ba pháp quán là Không-Giả-Trung. Tư tưởng phát triển này của Đại Thừa có thể nói là lấy tư tưởng của A Hàm làm nền tảng và do đó không thể thoát ly được giáo lý của Hữu Bộ và Thượng Toạ Bộ. Ở đây có thể kết luận rằng nếu không có tư tưởng trung đạo của A Hàm thì cũng không thể có Trung Luận của Long Thọ.
Nói tóm lại, trung đạo của A Hàm chính là sự tu tập, là con đường thực hữu để đi đến cùng tột bờ mé, để đi đến giác ngộ giải thoát, để đi đến Niết-bàn. Khi đó thì: “biết sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong và sau đời này không còn quay trở lại nữa”.







