Nhớ đồng quê

    Những ngày chớm thu, heo may về se lạnh, lũ trẻ chúng tôi rủ nhau bắt châu chấu cuối đồng, những đêm mò mẫm trong vườn, ngoài bờ mương, bờ ao soi bắt những chú dế chọi oai phong lẫm liệt, giọng gáy chuông, vang khắp ba gian nhà. Cái mùi rơm khô, rạ mốc, mùi bỏng mật, cốm xanh cùng với mùi bùn, mùi phân trâu, phân bò cho tới mùi thơm cá nướng, mùi ngọt canh cua, mùi khai con niềng niễng, mùi cay con cà cuống, mùi béo con muồm muỗm hơ quấy quả trên ngọn lửa đèn dầu cứ da diết trong tôi suốt những nẻo đường xa mẹ. Rồi mắt quả na, da quả mít, thơm thơm quả bưởi quả cam vàng rám nắng. Những đêm rằm Trung thu gió mát trăng thanh, khói trấu bay ngạt làng, lũ trẻ chúng tôi rùng rùng trống ếch múa lân, hong hóng trông giờ phá cỗ giữa sân kho hợp tác. Những trưa hè dang nắng thả diều, bắt chuồn ngô, đố nhau cho chuồn cắn rốn, để rồi cái rốn thì sưng mà tài bơi vẫn chỉ bập bõm.














    Tôi nhớ chiều chiều cả làng đổ ra bến sông, thì thụp tiếng đập chiếu, tiếng đập nước, tiếng reo hò và cả tiếng quát tháo, la hét gọi nhau chạy trước cơn mưa khi sấm nổ đùng đùng, ấy là cơn mưa rào giải nực, mẹ tôi vần quả mít thơm lừng từ xó bếp ra, bổ cho cả nhà cùng ăn. Tôi xăng xái ra giàn mướp hái một nắm lá đem về xát cho những miếng mít vừa được mẹ bổ ra vàng ươm hết nhựa. Cả nhà xúm xít cùng ăn cùng nhìn mưa trắng sân, trắng đồng mà hởi lòng hởi dạ.













    Mùa nào lũ trẻ chúng tôi cũng có trò chơi. Xuân về chín mọng quả gấc lùm cây, trên dược mạ ùn ùn người phèng la cổ vũ cho đô vật của làng. Các đô vật khố xanh, khố đỏ mình trần cuồn cuộn cơ bắp cùng nhau “lên đài”. Hội làng náo nức, cờ xí rợp đê, bên cống Thiên Bồng cây si già rủ muôn ngàn chùm rễ non tơ, quả chín rụng vàng, bầy chim cu xanh từ xứ nào bay tới, đậu chĩu chịt ồn ào.













    Đêm ba mươi mưa bụi, rét ngọt, cả làng tôi, cả huyện tôi náo nức thả đèn giời. Những cây đèn đủng đỉnh nối nhau chao trên vòm đêm bình yên của những năm hòa bình vừa lập lại, cùng với tiếng pháo nổ râm ran, mùi bánh chưng tỏa lan khắp đường làng, ngõ xóm, nét bút tài hoa câu đối Tết trên giấy hồng điều ông đồ – bố tôi cho chữ người hàng xóm sát nút giao thừa vừa dán xong trên hai vách trước cửa nhà thì nghe tiếng pháo râm ran, tiếng loa công cộng vang lên lời chúc mừng năm mới.













    Bức tranh quê êm đềm nuôi dưỡng tâm hồn chúng tôi trước ngày ra trận. Từ củ khoai lang luộc đến quả chuối chín cây, bờ ao, trứng ốc, tiếng ve tràn xóm, tiếng cuốc kêu giữa trưa vắng lặng, tiếng bìm bịp chiều hôm sương ngập bờ đầm… cứ rạo rực tràn trề niềm vui cùng chúng tôi đi khắp nẻo đường chiến trường và cho cả đến tận bây giờ.













    Ở chiến trường, chúng tôi không lúc nào nguôi nhớ đồng quê. Nhớ bóng dáng bà Đào tất tả vác rá chạy quanh làng vay gạo trong ký ức được khắc sâu bằng những câu vè. Nhớ ông đồ – thầy tôi ngồi thu mình nơi cổng chợ quê vẽ chữ nho trên giấy hồng điều. Nhớ đô vật Xanh lừng lững một thời. Chúng tôi ra đi mang theo bùn đất quê nhà. Cái làng Sưa bé nhỏ của tôi bây giờ đã khác xưa nhiều. Con trâu không phải mang cái ách là đầu cơ nghiệp. Bà Đào nào đâu có biết được đồng làng ta lúa tốt bời bời ba vụ, có gạo “bán cho Tây” vào loại nhất nhì thế giới, ôi cái sự nhất nhì thế giới của làng tôi âu cũng là niềm vui hồn nhiên, niềm vui thôn dã mà có cao hứng nói ra thì làng quê tôi cũng chẳng lấy nó làm điều khó chịu.