Bởi thế, ngày ba mươi Tết là ngày của những đoàn xe chen nhau từ thành phố này đi về mọi nẻo đường đất nước.
Tôi lang thang trên đường Lê Hồng Phong rồi rẽ vào một con hẻm, ghé vào nhà anh Hai Bạch, người anh bà con bên ngoại, gốc Cà Mau. Anh Hai Bạch lấy khô trâu ra nướng, hai anh em ngồi uống bia cho đến giao thừa. Mùi khô trâu bốc lên giữa Sài Gòn trong đêm ba mươi Tết đưa chúng tôi chìm sâu vào vùng tuổi thơ trong ký ức. Mùi rạ, mùi rơm, mùi khói đốt đồng, mùi khói un trâu, mùi cá lóc nướng trui quyện trong từng cơn gió bấc.
Năm 1966, trước khi ba tôi mất một năm, tôi còn là thằng bé chưa biết gì; đầu hớt cua, người hôi trâu, khét nắng. Hôm ấy, ba tôi từ chiến trường về, mang theo một đùm thịt trâu chừng năm ký. Ba nói con trâu Pháo của bác Tư Vạn chết vì mấy viên đạn súng trường xuyên qua bụng. Hồi ấy, xứ tôi có một tập quán rất lạ, hễ trâu chết thì chủ trâu xẻ thịt cho cả xóm làng, không bán, dù gia chủ rất nghèo. Ba tôi bảo mẹ tôi lấy một ít thịt trâu đem luộc, chấm cơm mẻ ăn, phần còn lại để ông làm khô, dành Tết uống trà.
Ba tôi không uống rượu, vả lại hồi chiến tranh, không ai dám uống rượu say, phòng khi bất trắc, thế nên ông thường làm các loại khô để uống trà. Ông xẻ thịt trâu ra từng lát mỏng, ướp xì dầu, đường, tỏi, ớt rồi lấy dây lạt xỏ từng miếng đem phơi toòng teng trên cây so đũa sau nhà. Một lát sau, nghe tiếng quạ kêu, ba tôi xách cái giàng thun chạy ra thì một bầy quạ đen bay vút lên trời, mỗi con mang theo một miếng thịt trâu lòng thòng như thách thức, những con không đớp được mồi thì kêu “quạ, quạ” rồi rượt đuổi đồng loại để tranh ăn. Ba tôi đứng nhìn theo, tiếc ngẩn ngơ. Mấy hôm sau, đến chiều ba mươi Tết, mẹ tôi ngồi gói bánh ít, ba tôi đi luẩn quẩn trong nhà, suy tính. Rồi bất giác, ông xách cái thùng thiếc – cái thùng dầu lửa con sò 20 lít mà người ta hay dùng làm thùng gánh nước – ra đồng và bảo tôi đi theo. Ông nói mình đi bắt cá cạn về ăn Tết. Trên cánh đồng chỗ cạn, chỗ sâu, chỗ khô, chỗ còn xăm xắp nước, lúa đang vào mùa chín rộ, một màu vàng rực mênh mông. Ba tôi đứng chắp tay sau lưng, phán đoán nơi trú ngụ của những đàn cá trê vàng mắc cạn vì mê ăn, không kịp xuống đìa sau trận mưa rước cá cuối năm. Ông ra hiệu cho tôi lội băng xuống một cái bàu cạn. Đúng là ông có giác quan thứ sáu, một cái vũng xăm xắp nước chừng vài trăm mét vuông, cá trê ăn móng nghe “chốc, chốc”. Nghe tiếng người, chúng chui vào nằm im trong gốc lúa sập. Ba tôi dùng hai bàn tay úp nhẹ lên gốc lúa rồi từ từ moi ra từng con cá trê vàng mập ú, lớn hơn cổ tay. Cứ mỗi gốc lúa như vậy, ông bắt được vài ba con. Đến khi mặt trời ngả màu vàng yếu ớt trên đồng, thùng cá cũng sắp đầy, ông bảo về, bắt một hồi nữa làm sao xách nổi!
Về nhà, tôi lấy cục xà bông Cô Ba với cái bàn chải xơ dừa ra bờ ao, tắm gội rồi mặc bộ đồ mới, mang dép mới. Lúc này, trong nhà, mâm cơm rước ông bà cũng đã dọn ra. Cá trê vàng nấu canh bắp cải, cá trê vàng kho tiêu, cá trê vàng nướng dầm nước mắm gừng. Bữa cơm chiều ba mươi Tết chỉ có vậy mà đầm ấm, mà nhớ đời.
Hai mươi năm sau, tuy dấn thân vào chốn thị thành đã lâu nhưng nghề bắt cá đồng đối với tôi vẫn được xem là một thứ tài vặt để lấy lòng cô bác nông dân và mấy cô thôn nữ. Dặm cù bắt chuột, đặt trúm, giăng lưới, cắm câu… hoặc nấu những món ăn dân dã, đồng quê đã cho tôi một cái tên để bà con gọi là “anh nông dân cầm bút”. Cũng nhờ cái tài vặt ấy mà tôi đã có lần dính chân với một cô gái ở ven rừng U Minh Hạ. Câu chuyện bắt đầu từ việc đi câu những con cá rô thóc, hái những cọng rau đồng khi trời mới sa mưa đến khi lúa lên đòng, rủ nhau bơi xuồng ra đồng giăng lưới. Từ cánh đồng lạ trở thành cánh đồng quen, quen đến như trở thành một chốn phải quay về. Và năm ấy, bất chợt tôi băng đồng lội về vào một chiều ba mươi Tết. Nhìn cái cảnh chị em vừa mới mồ côi mẹ, tôi chợt nhớ mấy câu thơ:
Tết này mặc áo bông
Ăn bánh tét, bánh phồng
Không còn đâu nữa mẹ xoa mái đầu.
![]() |
| Chuẩn bị lá dong gói bánh chưng đón Tết. Ảnh: Nguyễn Hữu |
Tết đến, nhà xiêu vẹo, mấy chị em ngồi chụm vào nhau, cặm cụi, lần mò gói từng đòn bánh tét một cách khó nhọc. Nhìn ra đồng, lúa đang mùa chín rộ, tôi chợt nhớ buổi chiều ba mươi của hai mươi năm trước với ba tôi, với thùng cá trê vàng. Tôi định trổ tài nhưng ngặt nỗi nước hãy còn ngập dưới chân lúa mênh mông. Từ ngoài đồng xa, những con mương chi chít dẫn vào vườn. Những con mương ấy gợi cho tôi nghĩ ra cách làm hầm bắt cá. Tôi bơi xuồng chở cái khạp da bò ra đặt dưới con mương, lấy đất bùn đắp ngang miệng hầm, vuốt cho thật láng để đón lũ cá trên đồng ruộng đang tìm đường về chốn ao đìa. Cứ vài phút, một con cá lóc, cá rô đi qua, gặp vật cản, chúng nhảy tưng lên và rơi vào cái khạp. Người ta gọi đó là cá nhảy hầm.
Chiều, mặt trời sắp lặn, tôi chở đầy một khoang xuồng cá về nhà. Mấy chị em trố mắt phục tài “sát cá” của cái anh chàng dân chợ.
Đêm giao thừa ở bìa rừng U Minh Hạ im lặng trôi qua sau một vài tràng pháo chuột. Hai đứa chúng tôi ngồi dưới gốc cây vú sữa già thức canh nồi bánh tét. Một bình trà đậm, một dĩa mứt dừa do cô ấy tự làm từ lúc ban chiều, một gói thuốc gò vấn bằng giấy báo, bên cạnh có một chiếc võng đan bằng dây chuối mắc qua cành vú sữa. Ban đầu chúng tôi nhường nhau, rồi nằm chung tự lúc nào không biết. Chỉ có vậy thôi! Vậy mà hạnh phúc, vậy mà bình yên, vậy mà ngọt ngào.
Giữa cuộc sống bon chen, một vài ký ức bình dị đôi khi trở thành niềm khát vọng.









