“Này các Tỷ-kheo, Ta đã được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, các Ông cũng được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chớ có đi hai người một chỗ.
Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Có các chúng sinh sinh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chính pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ đi đến Uruvelà, thị trấn Senà để thuyết pháp…” .
Đây được xem như lời nói nhân bản đầu tiên bắt đầu cho cuộc hoằng dương chính pháp với sự góp mặt của các đại đệ tử đức Phật, và việc làm lợi ích cho số đông này vẫn mãi được duy trì cho đến ngày nay. Có thể khẳng định, rằng, tư tưởng Bồ tát đạo đã được manh nha và phát triển trong những ngày đầu từ lúc Thế Tôn thành tựu Vô thượng Chính Đẳng Giác, bởi tinh thần sống của Tăng chúng không phải hưởng thụ những lợi ích riêng mình, không phải khổ hạnh mong xa lìa nghiệp cảm, mà vì hạnh phúc cho cả cộng đồng những nơi các Ngài có mặt.
Các Tỷ-kheo đã bắt đầu hành Như Lai sự với tinh thần dấn thân; đi khất thực; tùy duyên giáo hóa; đem đời sống xuất ly ươm mầm trong tâm thức tha nhân; dạy cho tất cả hành trì giới luật bằng chính phạm hạnh của các Ngài; chỉ cho mọi người thấy được đâu là con đường sáng, đâu là ngõ cụt có thể đưa đến thối đọa. Giáo đoàn hầu như đã thiết lập lại một trật tự sống phát xuất từ nội tâm cho tất cả các tầng lớp thời bấy giờ, bằng những lời dạy hết sức bình thường mà bất kì ai, thuộc tầng lớp giai cấp nào cũng có thể hành trì được.
Thế Tôn đã khẳng định, Ngài thuyết pháp không vì tranh chấp, tranh cãi, mà vì mục đích giải thoát, cho nên, những gì bậc trí tán thán, Ngài cũng tán thán; những gì bậc chân nhân không chấp nhận, Ngài cũng không chấp nhận. Qua đó ta thấy, đức Phật không phải đả phá mọi học thuyết ở Ấn Độ thời đó, mà luôn hoan hỷ thâu nhận những giá trị đúng đắn để vận dụng vào công việc độ sinh của mình.
Bồ-tát hạnh là căn bản nền tảng giáo lý đạo Phật. Thế nhưng, một thực trạng đáng cảnh báo đang diễn ra, có phải vì sự rộng lớn trong tư tưởng Bồ-tát đạo mà mọi thứ đang bị lạm dụng trầm trọng? Ngoại đạo đan xen vào, làm những điều sai lầm và vênh váo bảo rằng Bồ-tát hạnh là không còn chấp thủ, không còn vướng mắc một điều gì; chính một vài thành phần đệ tử Như-lai cũng xác nhận điều đó trong khi bản thân mình lại chưa thành tựu vấn đề tu tập. Đã đến lúc cần nhìn nhận một cách đúng đắn về giáo lý Phật-đà, để trả lại cho đạo Phật những giá trị trong sáng mà bấy lâu nay chúng ta đã cố ý hay vô tình bóp méo sự thật.
Bồ-tát đạo không phải là con đường dễ dàng thành tựu dù ai cũng có thể thực hành được. Muốn tu tập trọn vẹn, hành giả không thể nào là người phá giới, không thể cứ khơi khơi phóng dật, dễ dãi với chính mình được. Để hiểu Bồ-tát là thế nào, có lẽ, điều để làm sáng tỏ nhất là một định nghĩa.
1. khái niệm Bồ-tát và Bồ-tát Giới
Bồ-tát (菩薩),nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa(菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sinh. Trung hoa dịch là hữu tình giác (有 情 覺) và giác hữu tình (覺 有 情). Như thế, Bồ-tát có thể hiểu là một con người đang mưu cầu giác ngộ, hay một chúng sinh đã giác ngộ, nghĩa là chúng sinh ấy chắc chắn thành Phật. Một chúng sinh có bản chất của một người giác ngộ hay một chúng sinh tha thiết về sự giác ngộ gọi là Bồ-tát.
Tuy nhiên, trên nhiều phương diện, ở nhiều góc độ khác nhau mà danh từ Bồ tát được hiểu và dùng khác nhau. Vì lòng tôn trọng và sự kính ngưỡng của hàng đệ tử đối với bậc Đạo sư, Theravàda dùng danh từ Bồ tát để chỉ cho đức Phật. Cách dùng này xuất phát từ cách dùng của đức Phật khi kể về quá trình tu tập, tìm cầu chân lý của Ngài trong quá khứ cũng như hiện tại.
Trong Mahasanghika, danh từ Bồ tát được sử dụng rộng rãi và phổ biến hơn. Phật giáo Phát triển xiển dương lý tưởng Bồ-tát dựa vào hai đặc tính căn bản của đạo Phật là trí tuệ và từ bi. Theo ý nghĩa đó, thì bất cứ ai có lòng từ bi và trí tuệ, phục vụ tha nhân không biết mệt mỏi đều gọi là Bồ-tát.
Dù là Bồ-tát sơ phát tâm hay Bồ-tát đã đi vào Sơ địa cho đến Thập địa đều có chung một chí hướng, đó là “thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sinh” (上 求 佛 道, 下 化 眾 生). “Thượng cầu Phật đạo” là con đường tự ngộ của Bồ tát, thuộc trí đức; “Hạ hóa chúng sinh” là hành động ngộ tha của Bồ tát, thuộc tâm đức.
Bồ-tát Giới (菩 薩 戒) là những giới pháp căn bản mà một đệ tử Phật phát tâm hành Bồ-tát đạo phải tho trì. Nói rộng ra, tại gia Bồ-tát giới có 6 giới trọng và 28 giới khinh, hàng xuất gia có 10 giới trọng và 48 giới khinh. Muốn thọ Giới, hành giả phải phát tâm tha thiết cầu đạo Bồ-đề; thân cận thiện tri thức và xa lìa ác hữu; tâm hoan hỷ ưa thích cúng dường Tam bảo; biết tàm quý và biết hối lỗi; phải tuỳ hỷ khuyến thỉnh Phật Pháp, hồi hướng chúng sinh tăng trưởng Phật đạo; nguyện suốt đời hoằng dương giáo pháp; thương tưởng mọi người thiếu phước, khổ não về vật chất lẫn tinh thần; không tiếc nuối nội tài (thân mạng) và ngoại tài (vật chất) mà luôn luôn mong cầu có cơ hội để thí xả; không có các ác chướng (có thể hiểu như thanh tịnh Ngũ Vô Gián tội).
Tuy nhiên, trên thực tế cũng có một số không thọ giới Bồ-tát theo tác pháp nhưng vẫn làm những việc của Bồ-tát, đó cũng được coi là những lúc họ tự nhiên thành tựu giới nhờ có tâm từ bi và trí tuệ.
Có nhiều hình thức phân loại giới. Cách phân loại thứ nhất, giới mang ý nghĩa rộng rãi của “Đại-thừa”. Ở đây có ba loại:
– Loại một gọi là Nhiếp luật nghi giới, gồm có các giới của tại gia và xuất gia: ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới và cụ túc giới.
– Loại hai gọi là Nhiếp thiện pháp giới, lấy việc thực hành tất cả việc thiện làm giới.
– Loại ba gọi là Nhiêu ích hữu tình giới, lấy việc làm lợi ích cho tất cả chúng sanh làm giới.
Cách phân loại thứ hai cũng mang ý nghĩa rất rộng rãi của Đại thừa, gồm có:
– Biệt giải thoát giới, đấy là nội dung của Nhiếp luật nghi giới.
– Định cộng giới, là giải thoát do định sinh, lấy định làm giới. Do tu Thiền định mà thân tâm thanh tịnh, giới thể được cụ túc.
– Đạo cộng giới, là giải thoát do tuệ sinh, lấy tuệ làm giới. Do tu vô lậu nghiệp mà được trí vô lậu, giới thể được viên mãn.
Qua sự phân loại giới trên, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới là thuộc Đại thừa giới; biệt giải thoát giới và định cộng giới thì được gọi là hữu lậu giới; đạo cộng giới được gọi là vô lậu giới .
Thâu tóm lại, Bồ-tát có hai công việc chính:
– Nền tảng hoá độ (cũng gọi là Phẩm tính Bồ-tát): Tự mình giải thoát và giác ngộ. Đây là công việc của Trí tuệ soi thấy tánh Không hay Vô tự tánh của tất cả các hiện tượng (vạn pháp), của tất cả không gian và thời gian. Công việc này được gọi là tích tập trí tuệ, thuộc về Tự độ.
– Phương pháp hoá độ (cũng gọi là Lý tưởng Bồ-tát): Phụng sự chúng sinh (để họ được giải thoát và giác ngộ). Đây là công việc của lòng đại bi. Sở dĩ gọi là “Đại” vì đó không phải là công việc của một đời mà là công việc của một số đời bằng công việc số đời của tất cả chúng sinh; công việc của một đời sống “không bỏ chúng sinh” và do đó mà “không sợ sinh tử luân hồi”. Phụng sự, làm lợi lạc cho chúng sinh phải trải qua nhiều đời, trong mọi mặt. Công việc này được gọi là tích tập phước đức, thuộc về Độ tha.
2. Bồ-tát đạo:
Trong Kinh Viên Giác, Bồ-tát được định nghĩa là người xa lìa cấu huyễn (對 離 幻 垢, 說 名 菩 薩), cũng đồng với nghĩa “Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời mạt pháp trước hết phải dứt hết vô thỉ cội rễ luân hồi” (一 切 菩 薩, 及 未 世 眾 生 先 斷 無 始 輪 回 根 本) .
Còn Kim Cang, một bản Kinh được coi như trái tim của Phật giáo Bắc truyền nói chung và tư tưởng Bát-nhã nói riêng thì dạy: “Nếu một vị Bồ-tát mà còn ý tưởng về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, thì không phải là một vị Bồ-tát đích thực” (若 菩 薩 有 我 相, 人 相, 眾 生 相, 寿 者 相, 則 非 菩 薩) . Từ một vài khẳng định trên của đức Phật, chúng ta thấy rõ ràng rằng, để trở thành một vị Bồ-tát đích thực, trước hết hành giả phải trang bị cho mình một nền tảng tu tập khá vững chải, phải đặt mình vào chuẩn mực của chính pháp, bằng cách phải hành trì nghiêm mật giới luật và tu tập thuần thục những giáo lý căn bản.
Giới luật luôn là vấn đề được đức Phật đặt lên hàng đầu trong tất cả các lời dạy, như là một chuẩn mực sống đúng đắn cho hàng đệ tử. Ai có sự phòng hộ của Giới luật mới được mệnh danh là bậc nhập đạo có trí tuệ, nếu không, “tu chư thiện pháp” cũng chỉ “thị danh ma nghiệp” chứ có ích chi.
Giới là biểu hiện của Bồ đề tâm, hành giả tu tập Bồ-tát hạnh cũng lấy đây làm phục sức cho mình chứ không thể khác đi được. Tu tập để đạt chân giải thoát, theo đức Phật, phải đặt nền tảng thọ trì Giới bổn.
Như thế có nghĩa là, một kẻ không hề biết đến Giới luật, cứ vỗ ngực bảo rằng ta đây đang bước vững chắc trên tinh thần Bồ-tát thì cũng chẳng khác nào kẻ ăn bánh vẽ, hay đếm tiền cho ngân hàng trong khi mình tay trắng, vô nghĩa mà thôi. Giáo lý Phật-đà triển khai có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, và ở đâu Giới uẩn cũng đóng vai trò chủ đạo, cho nên Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội bảo:
“Tuy hữu sắc tộc, cập đa văn
nhược vô giới trí do cầm thú
tuy xử ty hạ thiểu văn kiến
Năng trì tịnh giới danh thắng sĩ”
(Dù có sắc tộc và đa văn
Nếu không giới trì như cầm thú
Tuy hạng tầm thường ít đa văn
Nghiêm trì tịnh giới danh thắng sĩ)
Giới là pháp hành không thể thiếu với một đệ tử Phật xuất gia cũng như tại gia. Giới là chánh thuận với căn bản của Giải thoát, nhờ giới mà Thiền định được thành tựu, và Trí tuệ nương đây mà được quán triệt. Trong các chúng hội, giới luật nào cũng được đặt nền tảng dựa vào Ngũ giới, những giới sau đều khai triển từ đây mà thành.
Bồ-tát vì lòng từ bi, giới luật trở thành phục sức tốt đẹp nhất trên bước đường tu tập và hoằng hoá. Giới là hiện thân của Tính giác. Khi chưa thấy Tính, một người chìm đắm trong mê mờ sinh tử cùng những ràng buộc nhỏ hẹp, cố ý sát hại mạng sống của mọi chúng sinh, tự giết chết tâm Phật của mình, đây là tội giết người nặng nhất trong những tội giết người.
Khi những tư tưởng mê lầm tiếp tục sinh khởi và kéo dài, ta tự tiêu dụng của ngời khác một cách phi nghĩa, huỷ báng kho tàng Phật pháp, làm hư hao công đức, đó là lúc ta trở thành tên cướp giật nguy hiểm. Khi những mê lầm sinh khởi và tiếp tục được nuôi dưỡng, ta sẽ mãi tạo thêm nghiệp bất thiện, mãi bắt tay mê mờ theo những thói quen đau khổ, đó là lúc ta mắc tội tà hạnh.
Khi mù quáng với những tư tưởng sai lầm, ta dù diễn nói pháp tới đâu do tham đắm vào danh lợi và địa vị, cũng rơi vào tội đại vọng ngữ chứ có ích gì. Khi bị cô lập trong tư tưởng sai lầm, trí tuệ không thể phát sinh, mọi thấy biết đều mập mờ, đó là lúc tâm trí ta không khác gì một gã say rượu, nói gì tới sự say rượu đời thường nữa, tất cử đều cùng chung kết cục đau khổ. Ngược lại với những điều trên là một hành giả được mệnh danh giữ giới thanh tịnh, không có chút tỳ vết, hàng được bậc Thánh ca ngợi.
Một vị Bồ-tát phải nhìn giới luật trên bình diện đó nhằm thăng tiến hơn đạo hạnh, để biết rằng, giữ giới chân thật là con đường giác ngộ nhanh nhất trong việc thấy bộ mặt rõ ràng của bản tính. Giáo pháp của Như-lai là đến để mà thấy chứ không phải để chiêm ngưỡng như một triết lý mông lung. Giáo lý ấy thật dễ hiểu, gói gọn hoàn toàn vào hai cụm từ “Trí Tuệ” và “Từ Bi”, nhưng chứng đạt được thì điều không phải dễ dàng. Và đó là chân trời mênh mông mà mỗi chúng ta đều có quyền lựa chọn và dấn thân!
Nói phổ quát, Bồ-tát tu tập căn bản dựa trên Lục Độ Ba-la-mật. Nhận chân được ánh sáng chân lý vốn trùm khắp lên vạn cõi rồi đem chân lý đó chỉ dạy cho chúng sinh một cách bình đẳng gọi là Bố thí. Khi ý thức được giáo lý Duyên Khởi Vô Ngã tính, thấy vạn vật nương nhau mà thành tựu, không gì tách rời được thì sẽ khởi tâm tôn trong tính giác tròn đầy, không còn khởi ý thức hệ chiếm hữu hay sát hại ai, đó chính là Trì giới.
Thấy Duyên khởi, Tứ Đế, không phân biệt giữa ta và người “lấy vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả tu hết thảy thiện pháp tức chứng đắc Vô thượng Bồ đề” (已 無 我, 無 人, 無 眾 生, 無 寿 者, 修 一 切 善 法, 即 得 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提) (Kinh Kim Cang), giữ tâm bất động, không giận tức khi bị khinh miệt, cũng không hớn hở khi được ca tán, đó gọi là Nhẫn nhục.
Tự mình nỗ lực để đắc trí tuệ chân thật và giúp người khác đắc trí tuệ chân thật gọi là Tinh tấn. Giữ mình trong tu duy Tứ Niệm Xứ, như lý tác ý đối với mọi ngoại pháp và nội pháp, tức Thiền định. Thấy rõ cuộc đời vốn Vô ngã, Duyên khởi, thể nhập vào sự thấy biết của các bậc Thánh (Thắng giải tâm, Quyết định tâm hay Duy tác tâm), đó gọi là Trí tuệ. Để thành tựu Ba-la-mật, điều đó không hoàn toàn dễ dàng.
Khi nhắc đến Bồ-tát, chúng ta thường nghĩ ngay rằng đó là những hình ảnh vĩ đại biến hoá giữa cuộc đời cứu độ chúng sinh. Nghĩ như thế không sai, nhưng chẳng trọn vẹn. Một vị Bồ-tát, phải hoàn thành mình trên hai địa vị: Tự độ và Độ tha. Lục Độ Ba-la-mật nhằm nói lên hai tiêu chuẩn đó. Chúng ta chỉ dẫn dắt người khác được khi ta đã có khái niệm, đã định hình, đã khát khao đi trên con đường giải thoát, đó gọi là Tự độ.
Khi tinh thần Tự độ đã hun đúc thì nền tảng Độ tha cũng từ đây được hình thành, hoàn thành một cách nhanh chóng. Và muốn chuẩn mực trên lộ trình đó, chắc chắn một điều rằng, hành giả không được phép mơ hồ về những giáo lý căn bản của đạo Phật. Chúng ta cần biết nguyên nhân tại sao ta có mặt trên cuộc đời này, biết như thế thì dần hiểu rõ hơn những điều đức Phật dạy.
Như-lai đã dạy rất rõ, gốc rễ sự vô minh gây khổ đau là vì tham ái và dục phát sinh mà không thể chính niệm tỉnh giác được. Sở dĩ chúng sinh luân hồi mãi trong bùn lầy tử sinh là do bị tham ái và dục chiếm hữu (thuộc chi phần Tập đế trong Tứ Diệu Đế). Vì thế, Bồ-tát tu tập cần phải thấy một cách tường tận: vòng xoáy luân hồi, Ái là căn bản. Do các dục giúp ái tánh phát sinh, nên khiến sinh tử nối nhau. Dục nương ái sinh, Mạng nương dục mà có. Ái mạng của chúng sinh lại nương nơi gốc dục. Ái dục là nhân, Ái mạng là quả.
Nói như vậy có nghĩa hành giả muốn bước đi trên lộ trình của Bồ tát phải quán chiếu gốc rễ sinh tử do ái để từ đó đoạn trừ, tức phải nhìn thấy bản chất của ái, vị ngọt của ái, sự tập khởi của ái và sự đoạn diệt của ái một cách triệt để. Điều này không phải dễ dàng vì chúng ta có mặt ở cuộc đời này cũng từ tham ái, cần phải nỗ lực thắng lướt mọi thói quen, mọi tư duy sai lầm bằng cách khởi Chính tri kiến nhằm bỏ Lý chướng và quyết tâm cắt đứt nguyên nhân sinh tử nhằm bỏ Sự chướng.
Bồ-tát phải cầu tất cả Chính tri kiến để định hướng việc tu tập chuẩn mực, điều này cần đến những tinh tấn trong Thiền Tứ Niệm Xứ: Niệm Thân tức quay lại quán chiếu thân Tứ Đại dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã; Niệm Thọ tức nhìn vào những cảm thọ về khổ, vui, không khổ không vui dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã; Niệm Tâm tức trở lại nhìn vào những chuyển biến của tâm thức nhằm có thể điều khiển tâm một cách thiện xảo dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã; Niệm Pháp tức nhìn vào những hiện tượng hiện hữu giữa cuộc đời dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã .
Đó chính là những pháp tu truyền thống mà bất kì Kinh điển nào chúng ta cũng có thể thấy được. Dần liễu tri vậy, thì biết Tứ vô lượng tâm, Tứ Đế, Duyên khởi… cũng đi đến lộ trình Tự độ, Độ tha như nhau.
3. Trầm tư Bồ-tát đạo
Chúng ta phải nhận ra, mọi lời thuyết pháp của chư Phật đều nhằm chỉ thẳng tâm, không nên bám chặt vào tên và lời, bởi đó chỉ là ngón tay đưa lên, còn đích chúng ta thấy phải là mặt trăng vằng vặc vượt ra khỏi giới hạn của ngón tay kia.
Nếu không như vậy, tất cả pháp ấy sẽ trở thành thuốc độc, hành giả sẽ phải thừa tự, sẽ phải là chủ nhân của ác nghiệp. Bất kỳ ở thời pháp và bản Kinh nào, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ soi rọi, thấy được cốt yếu nội dung không ra ngoài Cơ sở hoá độ (Phẩm Cách tu tập) và Phương pháp hoá độ (Lý tưởng hoá độ chúng sinh). Hai nội dung này đan xen vào nhau không thể tách rời, một nội dung thành tựu thì nội dung còn lại cũng dựa vào đó để viên mãn.
Những phần trên trình bày cũng đủ cho ta thấy chuẩn mực để biết được hình ảnh của vị Bồ-tát là như thế nào. Ngày nay, tinh thần Bồ-tát đạo càng được nhắc đến nhiều hơn, người bảo mình hành Bồ-tát đạo càng hiện hữu nhiều hơn, phải chăng đó là một dấu hiệu đáng mừng cho đạo Phật?
Nếu như thế, tại sao chư Phật chư Tổ gọi đây là đời ngũ trược ác thế? Tại sao bảo đây là thời mạt pháp? Đây là những câu hỏi vô cùng nhân bản mà chúng ta, những người có trách nhiệm thừa sự chư Phật trao giảng chính pháp, phải suy tư và tìm hướng giải quyết đúng đắn.
Hẳn nhiên, tất cả những việc làm thiện đều được gọi là việc làm của Bồ-tát, miễn đừng bao giờ nhân danh này, nhân danh nọ nhằm thoả mãn ý thức mang sắc thái hữu ngã. Việc làm của một Phật tử không bao giờ vượt ra ngoài những điều đức Phật dạy, tức phải dùng Giới uẩn, Định uẩn, Tuệ uẩn làm ngọn đuốc soi rọi.
“Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình thành hạng hạ liệt và ưu thắng” .
Một vị Bồ-tát không thể không phát những đại nguyện để phát khởi nguyện lực trên bước đường tu học và du truyền giáo pháp đầy cam go này. Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh đã chỉ dạy rất rõ về điều này. Là đệ tử Phật phải thề hiếu thuận cha mẹ, chư Tăng, Tam Bảo; thề nguyện nghiêm trì giới pháp; thề nguyện dù đau khổ đến đâu cũng không thể đem thân-miệng-ý phá giới này mà thọ nhận tất cả những cúng phẩm; thề nguyện luôn luôn thâu nhiếp sáu căn không cho tiếp xúc với sáu trần rồi khởi lên những tư tưởng bất chính …
Tất cả những lời đại thề nguyện đó nhằm cởi trói tư tưởng hành giả ra khỏi sợi dây tham-sân-si vốn vô lượng kiếp cột chặt trí tuệ mình. Nếu không phát khởi nguyện lực đó, một vị hành Bồ-tát như vậy sẽ phạm tội khinh cấu. Rất khó, nhưng tất cả chúng ta phải tâm tâm niệm niệm cố gắng, bởi một lẽ chân thật, đó là thọ mạng của Phật Pháp.
Chính chúng ta phải tự có trách nhiệm với chính mình, đó mới là hình ảnh Bồ-tát đẹp nhất cần được tôn thờ và tán thán. Một niềm thao thức, một sự khổ tâm, có lẽ không cần nói nhiều, bởi điều này Tôn-giả Ananda, bậc da văn đệ nhất, đã từng thấy trong giấc mơ: con sư tử chết, các loài phi trùng điểu thú không dám đến gần, giòi bọ từ trong ruột sư tử bò ra rúc rỉa thịt xương sư tử.
Giấc mơ đó được Thế-tôn giải thích: Giòi bọ từ trong bụng sư tử bò ra rúc rỉa thịt xương sư tử chết mà ăn, báo trước trong tương lai chính những kẻ nhân danh đệ tử Phật trở lại phá hoại pháp Phật, chứ ngoại đạo không bao giờ đủ sức phá nổi. Hiện tượng này phải chăng ngay một thêm lộ diện!
Nam Truyền bảo Bắc truyền là giáo lý không truyền thống, có được lợi ích gì? Với Bát Kỉnh Pháp, một vài phong trào ngoài nước dấy lên đòi bỏ, trong nước thì đang len lỏi chờ đục nước béo cò, cho rằng đó không phải lời Phật dạy, có ai thấy rằng chính trong Kinh Tăng Chi Bộ III đã dạy rất rõ không?
Bắc Truyền bảo giáo lý Nam truyền không rốt ráo, để được điều chi? Coi chừng, chiếc lưỡi không xương nhưng có thể khiến một vị tăng nổi tiếng đoạ 500 kiếp chồn hoang phải cầu cứu Bách Trượng Tổ sư chỉ vì bảo “người ngộ đạo không bị nhân quả chi phối” thay vì bảo “Bất muội nhân quả” (Không còn mê lầm trong sự chi phối của nhân quả nữa).
Đòi hỏi gì những điều vô ích, mơ hồ, vô nghĩa đó khi sinh già bệnh chết vẫn đến gõ cửa mà nhiệm vụ của đệ tử Phật phải niệm Vô Thường, phải tìm cách vượt ra nỗi khổ nội tâm. Quan điểm trong mỗi người theo hơi thở cũng có lắm đổi thay.
Nói rõ hơn, thật sự đời sống của chúng ta là chuỗi dài những ngờ vực và nghi vấn. Ngờ vực và nghi vấn này vừa được mở toang thì ngờ vực và nghi vấn khác lại tiếp tục chiếm lĩnh. Đời sống nếu thiếu đi những nghi vấn và ngờ vực thì con người khó lòng nhận chân ra được hiện thực. Nhưng phải xác định rõ những nghi vấn và ngờ vực đó có chính đáng hay không. Nếu chẳng được như vậy thì không khác nào lời đức Phật đã dạy, những điều thắc mắc, mơ hồ đó chỉ là vô nghĩa và hoang vu.
Cũng như một gã trúng phải mũi tên độc, thay vì để lương y rút ra và chữa trị vết thương thì gã lại không cho ai đụng vào mũi tên một khi chưa trả lời xong những câu hỏi như: Ai là người bắn mũi tên, người bắn đó thuộc dòng họ gì, mũi tên đó được bắn ra từ đâu, chiếc cung được làm bằng thân cây gì… Trả lời xong những câu đó, chắc chắn gã đã chết mất rồi. Biết những điều đó thì ích chi? Bồ-tát hạnh chẳng lẽ để đi làm những việc chẳng đầu chẳng đuôi mà cứ nghĩ là trí thức đó sao? Nếu đệ tử Phật làm vậy thì cũng chẳng khác các khoa học gia bỏ ra hàng trăm tỷ Đô-la đòi khám phá vũ trụ, cuối cùng có lợi ích gì không khi hàng triệu người đang đói khát khắp trái đất này, nếu có được hàng tỷ Đô-la đó thì sẽ duy trì được mạng sống?
Hỏi để ý thức rằng, đạo Phật bao gồm những triết lý hết sức thực tế nhằm giải quyết khổ đau vướng mắc cho cuộc đời ngay trong hiện tại.
Bồ-tát làm điều gì nếu không phải là tu tập, giữ giới, nói pháp cho chúng sinh được lợi ích? Thế mà, chính người viết trong thời gian không xa đây, được mời đi thuyết giảng cho một gia đình Phật tử chỉ vì lý do đáng đau nhức xót lòng hơn là nực cười: các em làm bài thi Phật Pháp bảo đức Phật Thích Ca sinh dưới cây “Mù U” (thay vì cây Vô-ưu) nhằm ngày mồng tám tháng hai (thay vì rằm tháng tư). Còn các giáo lý căn bản, có phải bị một vài đệ tử Phật coi thường hay lối giáo dục còn lộ những bất cập, còn quá chú trọng lá cây bao la trong rừng thay vì nắm lá Simsapa diệu kì trong tay Thế-tôn, khi chính Tứ Đế, Duyên Khởi_hai giáo lý căn bản để phân biệt đạo Phật và tà pháp, cũng là giáo lý tối thượng được Thế-tôn chứng đắc đầu tiên, lại không được hiểu từ những khái niệm căn bản thì làm sao áp dụng vào đời sống phạm hạnh.
Mỗi người nếu tự khuyên nhắc mình phải sống đúng tinh thần chư Bồ-tát, thiết nghĩ, có lẽ nên phải bắt đầu từ đây. Tin sâu nhân quả (để không rơi vào tà kiến); Niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới (để thành tựu Giới-Định-Tuệ), biết mình (tuệ tri) “Bồ-tát Ma-ha-tát như thế nào gọi là tự biết mình? Vì Bồ-tát này tự biết rằng ta có đức tin như vậy, có giới như vậy, có đa văn như vậy, có xả như vậy, có huệ như vậy, có đi đến như vậy, có chánh niệm như vậy, có hạnh lành như vậy, hỏi như vậy, đáp như vậy. Như trên đây gọi là biết mình” .
Đó là điều chúng ta phải tự nhắc mình thực hiện. Phàm tâm hay quên, nhưng đừng bao giờ mất hẳn.
Văn tự Phật giáo Bắc truyền rất phong phú, Kinh văn dùng ngôn ngữ biểu đạt khiến khả năng tư duy hành giả thêm nhạy bén. Tuy nhiên, cũng chứa một khó khăn lớn cho người sơ tâm học đạo. Triết lý Phật giáo rất logic, rất thuần thục, không hề mâu thuẫn chống đối, nhưng vì chuyển tải trên từng biểu ngữ khác nhau nên dễ rơi vào sự ngộ nhận.
Giáo dục tự viện, các lớp sơ cấp cần dạy cho người phát tâm biết những căn bản của đạo Phật. Thiết nghĩ, nên đưa Kinh tạng Nikàya làm nền tảng, vì đây là bộ Kinh dễ đọc, dễ hiểu, nếu có được sự trao truyền của chư giáo thọ thì sẽ tạo thói quen tự tìm nghiên cứu, tự tư duy và dễ thể nhập.
Còn nếu đưa những bản Kinh Bắc truyền, nhất là những bản Kinh thuộc hệ thống tư tưởng Bát-nhã, thì nên giảng thật thực tế, bằng những pháp tu tập hết sức thiết thực thuộc truyền thống đức Phật, thì người học dễ tiếp nhận và dễ đồng tình hơn.
Bồ-tát hạnh phải là những gì căn bản mà con người bình thường có thể làm được để dần tiến lên những phẩm vị cao hơn, là điều chúng ta cần trao truyền để người học không còn mơ hồ, không còn xem Phật giáo là cái gì mông lung, xa cuộc đời, khó hiểu nữa.
Chư Phật, chư Tổ, chư Giáo thọ trong hiện tại đã phải trải qua rất nhiều gian khổ để tầm đạo, hành đạo và truyền đạo, Tăng Ni sinh chúng ta trong hiện tại phải nỗ lực phát huy, nếu không, khó lòng “báo Phật ân đức” hay “dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”.
Một vài suy tư thô thiển mà trên quá trình tu học, người viết đã không tránh khỏi những trăn trở. Nói về tư tưởng Bồ-tát hạnh thì đôi lúc chỉ cần một câu “Thượng cầu Phật đạo, Hạ hoá chúng sinh” là đủ, đôi lúc nói thật nhiều, tràn giang đại hải cũng không sao diễn tả hết công hạnh cùng tột đó. Chỉ mong sao chúng ta, những đệ tử Thế-tôn, phải rọi soi đời mình ở chính pháp để những việc làm trở nên ý nghĩa và hoàn hảo hơn.
Nếu bảo đạo Phật có những lời khuyên, thì lời khuyên ấy tóm tắt gồm trong những điều cơ bản:
– Phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc, phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả .
– Những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chính pháp làm ngọn đèn, dùng Chính pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi .
– Hãy là người thừa tự Pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Ngươi và Ta nghĩ: “Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật?”.
Nếu các Ngươi là những người thừa tự tài vật của Ta, không phải là những người thừa tự Pháp, thì không những các Ngươi trở thành những người mà người ta nói: “Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự Pháp”, mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: “Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự Pháp” .
… …
Thừa tự Pháp là lời dạy gói gọn tất cả những giáo lý mà đức Phật đã dạy cho hàng xuất gia cũng như tại gia, và trong tất cả những giáo lý đó, Giới Luật vẫn luôn được Thế-tôn nhấn mạnh. Giới luật Bồ-tát được coi là nền tảng trên hành trình học đạo và du hoá độ sanh của hành giả, là tinh thần dấn thân nhập thế triệt để nhằm đem lại lợi ích cho số đông, bởi có 10 lợi ích như Kinh dạy:
– Để Tăng chúng được cực thịnh,
– Để Tăng chúng được an ổn,
– Để chặn đứng các người cứng đầu,
– Để các thiện Tỷ-kheo được sống an ổn,
– Để chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại,
– Để chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai,
– Để đem lại tịnh tín cho những người không tin,
– Để làm tịnh tín tăng trưởng cho những người có lòng tin,
– Để diệu pháp được tồn tại,
– Để luật được chấp nhận.
(Tăng Chi Bộ Kinh 3B, tr. 73)
Ngày nay, đạo Phật đang phát triển rất mạnh mẽ, nhiều giáo pháp được xiển dương, Bồ-tát hạnh cũng không ngoại lệ. Thế nhưng, đã đến lúc chúng ta phải nhìn nhận thật đúng quan niệm vận dụng Bồ-tát đạo vào cuộc sống để không trái với chính pháp, không rơi vào lạm dụng danh xưng.








