Ngày hôm nay, chúng ta tề tựu về chùa Côn Sơn để kỷ niệm ngày hoá của thiền sư đệ tam tổ Trúc Lâm – Huyền Quang tôn giả. Ngài viên tịch vào ngày 23 tháng Giêng, năm Giáp Tuất (1334), thọ 81 tuổi, cách ngày nay 675 năm. Để tưởng nhớ đức hạnh và trí tuệ Phật đạo uyên thâm của Ngài, tôi xin nêu vài nét khái quát về Đạo và Đời của thiền sư Huyền Quang.
Phật giáo thời Lý – Trần nói chung và dòng thiền Trúc Lâm nói riêng đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống, kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá Việt Nam không chỉ thời bấy giờ mà còn đến tận cả ngày nay. Trên nền tảng tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” (Phật, Nho, Lão), Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã phổ cập tư tưởng, giáo lý này tới các thiền lâm, phù hợp với hoàn cảnh chính trị lúc bấy giờ, nên còn gọi là tư tưởng “Hoà quang đồng trần”.
Mặt khác, việc đức đệ nhất Phật Hoàng Trần Nhân Tông hợp nhất ba tôn giáo lại với nhau, không chỉ mang ý nghĩa về tôn giáo mà còn nhằm tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối đoàn kết thống nhất, vững mạnh để chống lại quân xâm lược Nguyên- Mông, giành độc lập dân tộc và xây dựng một nền tư tưởng văn hoá độc lập cho nước Đại Việt.
Tư tưởng này, Ngài đã truyền lại cho hai môn đệ của mình là thiền sư Pháp Loa và Huyền Quang. Mặc dù đệ tam tổ Huyền Quang xuất gia muộn, nhưng Ngài đã thấm nhuần tư tưởng Đạo và Đời của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Trong quá trình tu tập và truyền bá chính pháp tới bách tính, tư tưởng ấy đã được quần chúng hồ hởi đón nhận. Bởi vậy, trong thời kỳ này, có nhiều ngôi chùa hiện vẫn còn, thuộc thiền phái Trúc Lâm xây dựng đã được các triều vua xếp vào hàng “đại danh lam”, như: chùa Siêu Loại – Báo Ân tự (xã Dương Quang, huyện Gia Lâm, Hà Nội), chùa Đức La – Vĩnh Nghiêm (xã Tân La, huyện Yên Dũng), chùa Bổ Đà- Tứ Ân tự (xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, Bắc Giang), chùa Quỳnh Lâm (xã Tràng An, huyện Đông Triều), Danh thắng Yên Tử ( Thị xã Uông Bí, Quảng Ninh), chùa Thanh Mai (xã Hoàng Hoa Thám, huyện Chí Linh), chùa Côn Sơn (xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, Hải Dương), chùa Phổ Minh (thành phố Nam Định)…;
Với các chùa thuộc hàng “trung danh lam” có: chùa Vĩnh Khánh tự – Trăm Gian Yên Ninh (xã An Bình, huyện Nam Sách), chùa Dâu (xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc), chùa Đồng Ngọ (xã Tiền Tiến, huyện Thanh Hà), chùa Hương Hải (xã Ái Quốc, huyện Nam Sách), chùa Kỳ Lân (huyện Chí Linh), chùa Giám (Tiên Sơn, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương); chốn tổ chùa Trung Hậu (xã Tiền Phong, huyện Mê Linh, Hà Nội)… và nhiều ngôi chùa thuộc hàng “tiểu danh lam” cũng được hưng công xây dựng, như chùa Thiên Sơn Bồ Đề, chùa Đa Bảo, chùa Đa Tốn (Gia Lâm), chùa Ráng -Viên Minh tự (xã Cổ Liêu, huyện Phú Xuyên, Hà Nội), chùa Sếu – Đống Cao tự (xã Tân Hưng, thành phố Hải Dương), chùa Hào Xá (huyện Thanh Hà), chùa Lệ Kỳ- Huyền Thiên Cổ tự (huyện Chí Linh), chùa Bụt Dậm- Phật Tích tự (thị trấn Sao Đỏ, huyện Chí Linh), chùa Bóng – Quang Minh tự (xã Quang Minh, huyện Gia Lộc), chùa Linh Ứng (xã Thăng Long, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương)…
Nhà nghiên cứu Phật giáo lão thành cố giáo sư Nguyễn Duy Hinh nhận xét:”Không có phái Trúc Lâm thì không có Phật giáo Việt Nam“[1]. Tôi cho rằng, cho đến tận ngày nay, phái Trúc Lâm hiện vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc đến các thiền môn, nhất là ở các ngôi chùa thuộc phái đại Thừa ở miền Bắc Việt Nam, vì nó đã giải quyết hài hoà hai vấn đề tôn giáo và xã hội hay nói cách khác, đó là Đạo và Đời.
Ngài Huyền Quang đệ tam tổ Trúc Lâm đã mở ra một bước ngoặt cho lịch sử Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo thời Trần nói riêng. Ngài sinh ra trong một gia đình mộ đạo, ở hương Vạn Tải, lộ Bắc Giang Hạ (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh).
“Ngài thể mạo kỳ dị, mà có chí khí của bậc vĩ nhân. Cha mẹ Ngài rất yêu quý, cho học văn chương. Ngài nghe một biết mười, có tài của Nhan Hồi Á Thánh, do đó, Ngài được cha mẹ đặt cho tên là Đạo Tái. Năm 20 tuổi, Ngài thi Hương đậu, năm sau thi đậu luôn thủ khoa kỳ thi Hội“[2].
Trong thời gian từ lúc thi đậu đến khi xuất gia là 30 năm, triều đình cũng như gia đình muốn lập gia thất cho nhưng Ngài đã khước từ; việc này đã để lại nhiều huyền thoại. Thấy Ngài là một người tài cao, đức trọng, lại am hiểu việc nước và có tài ngoại giao nên nhiều lần nhà vua cho phụng mệnh tiếp sứ giả Trung Quốc, với tài ứng tác trôi chảy, Ngài đã khiến các sứ thần phương Bắc nể phục.
Trong khoảng 20 năm làm quan trong triều (1285-1305), Ngài đã để lại nhiều tiếng thơm, từ vua, quan văn- võ đến dân chúng, ai ai cũng mến mộ đức hạnh và sự liêm khiết của Ngài. Ngài đã nhiều lần có cơ duyên tháp tùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm (xã Tân La, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) nghe thiền sư Pháp Loa thuyết pháp[3]; do có nhân duyên với Phật pháp, Ngài đã giác ngộ thiền cơ ngay sau buổi nghe pháp này. Sau đó, ba lần dâng biểu lên nhà vua, Ngài xin từ chức làm quan để trở về học đạo, quy y Phật pháp ở tuổi 51.
Năm 1305, Ngài chính thức xuất gia tu hành với thiền sư Bão Phác. Trong thời gian thiền sư Pháp Loa thuyết pháp ở chùa Siêu Loại (nay là xã Dương Quang, huyện Gia Lâm, Hà Nội), thiền sư Bão Phác thường cho Ngài đi cùng để nghe giảng về giáo lý và phụ giúp nghi lễ. Thiền sư Pháp Loa thấy Huyền Quang là một người am tường giáo lý Phật đạo và có tài thuyết pháp, cuốn hút các đệ tử, dân thôn bản hạt đến nghe giảng kinh tạng ngày một đông.
Để mở rộng phạm vi sơn môn Trúc Lâm tới các ngôi chùa làng ở miền Bắc, thiền sư Pháp Loa đã xin thiền sư Bão Phác cho thiền sư Huyền Quang ở lại chùa Siêu Loại một thời gian để phụ tá cho mình. Kể từ thời gian đó, thiền sư Huyền Quang chính thức trưởng thành trên con đường tu tập, học đạo và thuyết pháp. Trong 2 năm tu tập cùng với Pháp Loa (1306-1308), thiền sư Huyền Quang đã soạn nhiều bộ kinh sách để lưu hành trong sơn môn, đó là các bộ kinh:
– Chư phẩm kinh: Tuyển tập những bài kinh thiết yếu và thực dụng để thuyết pháp cho đệ tử nghe, học và theo.
– Công văn tập: Tuyển tập những bài văn sớ, điệp, trạng dùng trong các khoa lễ của Phật giáo.
– Thích khoa giáo: Tập sách giáo khoa nói về nguồn gốc và lịch sử đạo Phật và các môn phái đạo Phật ở Việt Nam.
Việc hiệu đính và cho khắc ván in kinh của thiền sư Huyền Quang vô cùng quan trọng, không chỉ với việc phát triển, phổ cập thiền phái Trúc Lâm tới quảng đại quần chúng nhân dân lúc bấy giờ mà vẫn còn có tác dụng hữu ích cho đến tận ngày nay và mai sau.
Trong cuốn “Tổ Gia Thực Lục” chép rằng, Đức Phật Hoàng đệ nhất tổ Trần Nhân Tông rất hài lòng với công việc hiệu đính, sáng tác kinh sách của thiền sư Huyền Quang. Khi đọc xong bản thảo “Thích khoa giáo”, Đức Phật Hoàng đã ngự bút phê và nhận xét về sư Huyền Quang như sau: “Phàm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn, hiệu khảo thì không thể thêm hay bớt chữ nào được nữa“[4].
Qua tư liệu đi khảo cứu điền dã của chúng tôi cho thấy, hiện nay nhiều ngôi chùa vẫn còn lưu giữ một số hiện vật liên quan đến thời Trần nói chung và của thời kỳ thiền sư Huyền Quang truyền bá đạo pháp nói riêng.
Tại chùa “Viên Minh – Ráng (Hà Nội) còn lưu giữ nhiều mộc bản (bản ván khắc bằng gỗ), trong đó có bản “Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn thư”, được khắc lại vào mùa hạ năm Mậu Ngọ, thời vua Khải Định năm thứ 3 (1918); chùa Hương Đại (huyện Thanh Hà, Hải Dương) – nơi lưu huyết bút và 9 viên xá lợi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông; còn có dấu triện của Ngài Huyền Quang cùng nhiều sắc phong thời Lê – Nguyễn; chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà (Bắc Giang), chùa Dâu, chùa Hương Hải, chùa Yên Ninh, chùa Hào Xá (Hải Dương)…, còn lưu giữ nhiều bia ký, sắc phong, thần tích liên quan đến phái Trúc Lâm.
Đặc biệt, tại chùa Linh Ứng (xã Gia Khánh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) còn lưu giữ một pho tượng Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng gỗ, cao 23cm, tạc vào thời Nguyễn, 01 bình bát chất liệu gốm và nhiều kinh sách bằng chữ Hán in bằng kỹ thuật “mộc bản” trên chất liệu giấy dó liên quan đến thiền phái Trúc Lâm, như: “Thái Tông ngự chế khoá hư lục” (in lại năm Canh Tý, đời vua Minh Mệnh), “Tam tổ thực lục” (năm Thành Thái thứ 9), “Trần Triều dật tồn Phật điển lục” (năm Thành Thái thứ 15), “Kiến tính thành Phật” (năm Thành Thái thứ 9), “Ngự chế thiền điển thông yếu kế đăng lục” (năm Tự Đức thứ 12), “Trùng san viên giác lược sớ” (năm Tự Đức thứ 36), “Khoa cúng tam tổ Trúc Lâm” (gồm cả văn sớ, vào thời Nguyễn)…; chùa Duyên Khánh (xã Đông Kỳ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương) còn có tượng cổ thờ tổ Huyền Quang thế vị tổ A Nan tại ban đức Thánh Hiền, trên có bức hoành phi đề “Tứ hải trạng nguyên” và hai câu đối nói về hành trạng của Ngài (Bộ hoành phi câu đối này đã được phục chế, còn bộ cổ đã được hoà thượng Thích Thiện Kỳ đưa về thờ tại nhà tổ chùa Côn Sơn vào tháng 9 năm 1977)…
Thiết nghĩ rằng, những hiện vật nêu trên, không chỉ là những cứ liệu về mặt lịch sử, văn hoá, tôn giáo…, minh chứng cho việc phổ cập sâu rộng của thiền phái Trúc Lâm tới các làng quê cho tận đến ngày nay mà còn là “một kho tàng di sản văn hoá” của quốc gia, chúng ta cần phải được bảo tồn một cách cẩn thận và công bố trên mọi thông tin đại chúng để phát huy được tác dụng của di tích, đạo pháp của phái Trúc Lâm đến được với mọi tầng lớp nhân dân.
Ngoài ra, thiền sư Huyền Quang còn là người có năng khiếu về ngôn ngữ, mỹ thuật, phong thuỷ…, nên Ngài thường được các vị cao tăng mời đi dao du, ngắm cảnh các danh lam cổ tự và đăng đàn thuyết pháp.
Có lần, thiền sư Huyền Quang còn được Đức Phật Hoàng cho an toạ trên pháp toà làm bằng trầm hương của mình để giảng kinh. Sư tổ Huyền Quang cũng từng trụ trì chùa Vân Yên, trên núi Yên Tử và đã sáng tác bài phú “Vịnh Vân Yên tự”. Để tỏ lòng mến mộ kiến thức uyên thâm của Ngài, các tăng ni ở các nơi đến theo học và nghe Ngài thuyết pháp ngày càng đông, ước tính lên tới hàng ngàn đệ tử.
Ngoài việc mộ đạo đi theo chính pháp của Đức Phật Hoàng, thiền sư Huyền Quang còn là người con hiếu nghĩa với cha mẹ. Ngài thường về quê thăm hỏi song thân và giáo hoá dân chúng ở hương thôn và đã cho xây dựng một ngôi chùa, lấy tên là Đại Bi tự. Ngày khánh thành chùa, Ngài tổ chức mở pháp hội lớn, thỉnh mời chư tăng và phật tử đến dự. Những phẩm vật, tiền bạc của đạo hữu dâng cúng, Ngài đem ra cúng dường chư tăng và giúp đỡ người nghèo.
Mỗi lần về thăm quê, Ngài đều ra chùa lễ Phật, nói chuyện và giảng Pháp cho tăng chúng nghe, mọi người hoan hỉ, cảm kích, thán phục về tài đức và kiến thức uyên thâm của Ngài.
Trong thời gian trụ trì chùa Vân Yên- Hoa Yên (Yên Tử), thiền sư Huyền Quang đã bị hàm oan dính líu đến việc một cung nữ tên là Điểm Bích, giả làm người xin xuất gia học đạo để rồi biểu lộ tình tứ, gạ gẫm với ý đồ thực hiện sứ mệnh mà vua Trần Anh Tông giao cho thử Ngài.
Như chúng ta đã biết, Ngài là bậc hảo tâm xuất gia, xác định rõ con đường trước khi lựa chọn. Đồng thời, Ngài là bậc tri thức lỗi lạc, tấm lòng từ bi rộng lớn; hơn nữa khi đó tuổi Ngài đã già lại khoác trên mình sứ mệnh trọng đại của Đức Phật Hoàng và Nhị Tổ giao phó, đâu còn điều kiện để bụi trần bén vào tâm Ngài được. Cuối cùng, nỗi oan ức của Ngài cũng được sáng tỏ.
Trong thời gian trụ trì tại chùa Côn Sơn, thiền sư Huyền Quang đã soạn và cho in bộ “Chư phẩm kinh” để lưu truyền cho hậu thế, tiếp tục sự nghiệp truyền bá chánh pháp của đệ nhị tổ Pháp Loa cho các thế hệ mai hậu.
Đồng thời, thiền sư Huyền Quang cũng đã cho khởi công làm một tòa tháp “Cửu Phẩm Liên Hoa” bằng gỗ, để làm phương tiện tụng niệm và khởi nhân duyên chính pháp cho phật tử. Do nhiều nguyên nhân nên bộ “Cửu Phẩm Liên Hoa” này không còn cho chúng ta được chiêm ngưỡng mà chỉ còn hoài niệm công đức to lớn của Ngài.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, thiền phái Trúc Lâm nói chung và thiền sư Huyền Quang nói riêng đã để lại cho chúng ta và hậu thế cả “một kho tàng tri thức bác học Phật giáo”, có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa, xã hội từ đó đến nay.
Hiện nay, cũng có một số ý kiến cho rằng, sau thời đệ tam tổ Huyền Quang, Phật giáo Trúc Lâm bị “suy thoái”, trách nhiệm ấy phần lớn thuộc về Ngài. Theo quan điểm của cá nhân tôi thì không phải như vậy. Việc “suy thoái” của dòng thiền này là do nhiều yếu tố, như: lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá… và nhất là, trình độ nhận nhận thức về đạo pháp của các tín hữu ở các thời kỳ sau đó có sự giao động về mặt tư tưởng.
Việc nghiên cứu về tổ đệ tam Huyền Quang vào thời đại ngày nay một cách đầy đủ thì quả thật là một việc làm vô cùng khó khăn, ngay cả các sách chính sử cũng còn nhiều điều viết chưa thống nhất. Nhưng tôi nghĩ rằng, Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông đệ nhất tổ và thiền sư Pháp Loa đệ nhị tổ là những bậc minh triết, không thể nào có hiện tượng chọn nhầm người để truyền y bát làm đệ tam tổ cho thiền phái của mình.
Hơn nữa, hành trạng của Ngài đã trở thành huyền thoại vô cùng hấp dẫn cho giới tri thức và quảng đại quần chúng. Có thể khẳng định rằng: Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Nhị tổ Pháp Loa và Tam tổ Huyền Quang là Ba vị tổ sáng giá nhất về tài- đức, đạo- đời; đồng thời Ba vị tổ đã là hiện thân cực kỳ hoàn hảo của một bộ Tam Thánh; là linh hồn vĩnh cửu của thiền phái Trúc Lâm không chỉ ở thời Trần mà còn chiếu sáng cho thế hệ chúng ta ngay nay và mai sau noi theo.
Thích Giác Thành – Phó ban Nghi lễ THPG Hải Dương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Duy Hinh “Tìm hiểu ý nghĩa xã hội của phái Trúc Lâm thời Trần”, in trong cuốn “Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần”, Nxb Khoa học xã hội, H 1981, tr.640.
[2] Nguyễn Lang “Việt Nam Phật giáo sử luận”, Nxb Văn học, Hà Nội 2000, tr.333.
[3] Có ý kiến cho rằng, thiền sư Pháp Loa khi 21 tuổi, lúc này mới xuất gia được một năm, chưa có khả năng thuyết pháp. Theo tôi thì không phải như vậy. Vì đây là thiên bẫm của thiền sư Pháp Loa nên sau đó gần 4 năm, khi 25 tuổi, Ngài đã chính thức được Đức Giác Hoàng truyền tâm ấn làm tổ đệ nhị.
[4] Nguyễn Lang “Việt Nam Phật giáo sử luận”, Nxb Văn học, Hà Nội 2000, tr.335.








