Hòa thượng hiện diện tại vị hơn 2 nhiệm kỳ (1981-1993) rồi Hòa thượng đã quy Tây khi công tròn quả mãn, đến đi tự tại trong cõi đời hóa hóa sinh sinh, sinh tử là việc nhàn. Như Từ Minh Pháp sư đã nói: “Sinh như thể đắp chăn Đông. Thác như cởi áo Hạ nồng khác chi. Xưa nay các pháp hữu vi. Không sao tránh khỏi hiệp ly vô thường. Một khi ngộ lý chân thường. Pháp thân hiển hiện mười phương chan hòa”, nhưng công đức và đạo hạnh của Hòa thượng vẫn còn hiện hữu trong lòng người con Phật Việt
Kế thừa sự nghiệp cao cả của Đức Đệ nhất Pháp chủ, sự hiện diện của cố Hòa thượng Thích Tâm Tịch, Đệ nhị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam lại là một sự hiện diện có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tiếp tục duy trì và phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam, liên kết cả hai nhiệm kỳ của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI của nhân loại.
Qua đó, có thể thấy ân đức hiện diện của Hòa thượng, năm 1981 là thành viên của Đoàn đại biểu Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam tham dự Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam và trở thành một thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng là một viên gạch kiên cố, góp phần xây dựng thành công ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, dù chỉ là một cử chỉ nhỏ, một việc làm nhỏ, nhưng giá trị vô cùng lớn lao, vì chính sự hiện diện của Hòa thượng đã góp phần cùng bao sự hiện diện khác trong tinh thần hòa hợp, đoàn kết, thống nhất ý chí, hành động và tổ chức, để từ đó Giáo hội Phật giáo Việt Nam chắp cánh tung bay trong nền trời tự do, phát triển vững mạnh trang nghiêm trong lòng dân tộc. Quả thật: “Xin cho tôi làm một hạt cát để góp thành sa mạc của thế gian. Xin cho tôi chắp cánh đại bàng để tô điểm trần gian thêm tươi đẹp”.
Năm 1984, Hòa thượng lại đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thay cho cố Hòa thượng Thích Nguyên Sinh đã viên tịch. Hòa thượng đã đảm nhận một trọng trách vô cùng lớn lao trong Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh, lãnh đạo tối cao của Giáo hội về mặt Đạo pháp và giới luật cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam. Đồng thời, Hòa thượng còn đảm nhiệm vai trò chánh trụ trì Tùng lâm Quán Sứ, trụ sở Trung ương Giáo hội, kế thừa sự nghiệp của chư vị tiền bối hữu công: Tổ Thanh Hanh, Tổ Tuệ Tạng, Tổ Mật ứng, Tổ Trung Hậu, Đại lão Hòa thượng Thích Tố Liên, Hòa thượng Thích Trí Độ v.v.. trong ngôi nhà Như Lai, tòng lâm thạch trụ, giữ vững môn phong, xứng danh con nhà họ Thích, xứ sở ngàn năm văn vật, lịch sử hào hùng, địa linh nhân kiệt. Quả thật: “Giữ gìn Tổ ấn tông phong, Tốt đời đẹp đạo giữa lòng nhân gian”.
Năm 1992, Hòa thượng được Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ III suy tôn vào ngôi vị Phó Pháp chủ, Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, như thế không những đã củng cố và tăng thêm phần đạo phong trác thế của Hoà thượng đối với Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam mà Hòa thượng còn có thể hộ trì Phật sự cao hơn, hữu hiệu hơn trong cương vị phụ tá Đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nói thế có nghĩa là: “Thành tâm khấn nguyện Phật Đà. Cầu cho Đạo pháp, nước nhà vinh quang”.
Năm 1997, Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV, Hòa thượng được suy tôn lên ngôi Pháp chủ bị khuyết do Đức Đệ nhất Pháp chủ viên tịch năm 1993. Bằng giới đức trang nghiêm thanh tịnh, Hòa thượng đã tỏa ngát hương lành trong Giáo hội, là bóng đại thụ che mát cho Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước. Và cũng từ đó, Hòa thượng đã in sâu sự hiện diện của mình trong tâm khảm người con Phật và trong mỗi tiến trình hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, góp phần thành công rất lớn về mặt Đạo pháp và sinh lực của Giáo hội. Niềm tin của Tăng Ni, Phật tử càng được củng cố, khi hữu duyên bái kiến Hòa thượng, nhất là qua những đạo từ, thông điệp Phật đản, thông điệp đầu năm và thông điệp về tình hình Giáo hội v.v… là những âm ba bất tuyệt, là nguồn suối dịu hiền tắm mát mọi người để cùng tinh tấn, tiến lên trên lộ trình hoằng dương Chánh pháp, lợi lạc quần sinh, tốt đời đẹp đạo. Thế nên, “Dù cho bể cạn non mòn. Bao lời huấn thị sắt son không mờ”.
Sự hiện diện của Hòa thượng đơn giản chỉ có thế thôi, nhưng ý nghĩa vô cùng quan trọng, vô cùng thẩm thấu và chan hòa bất tận. Hòa thượng không đi nhiều, không nói nhiều, không làm nhiều nhưng là tất cả. Vì sao? Vì người xưa đã nói: “Bậc hiền nhân trí đức, chỉ cần nhìn qua cửa sổ, nhưng đã quán thông cả thiên hạ. Chỉ cần rảo bước chốn liêu phong, nhưng dấu ấn, âm ba chan hòa khắp cả mọi nơi” (Khổng Tử, Mạnh Tử). Tại sao? Vì Hòa thượng đã đi bằng tâm, nói bằng tâm và hành động bằng tâm, nên tâm tâm giao hợp, cảm thông và thấm nhuần ân đức hộ trì của Hòa thượng, nên biết bao Phật sự của Giáo hội đều được thành tựu như ý, nhất là Tăng Ni, Phật tử chúng con cảm thấy ấm lòng, an dạ tu tâm, hành đạo và càng củng cố niềm tin Đạo pháp. Quả thật, như cổ đức nói: “Duyên xưa biết mấy nhiêu đàng. Bây giờ xem lại rõ ràng là đây”.
Sự hiện diện của Hòa thượng trong liêu phòng thanh vắng, tay lần tràng hạt, niệm Phật liên hồi, thân tâm thanh tịnh, là một sức sống, niềm tin cho Tăng thân và Pháp thân đại chúng, hàng môn nhân đệ tử và những ai có duyên bái kiến Hòa thượng nơi phương trượng Tòng lâm Quán Sứ. Điều này có thể hiểu được là đồng nhất với tâm nguyện của Phổ Tịnh Đại sư: “Bao năm ngồi tịnh núi Đại Hùng. Ngẫm nghĩ thân cùng Đạo chẳng cùng. Sáu chữ chuyên trì được thọ ký. Lưu truyền sáng tỏ cả tông phong”.
Chính từ những sự hiện diện ấy, mà Hòa thượng đã hiện diện trong lòng chúng con, nhất là mỗi khi ra công tác Phật sự tại Văn phòng Trung ương Giáo hội, các tỉnh miền Bắc, các kỳ Đại hội, những lúc Hòa thượng Pháp thể khiếm an, chúng con vào bái kiến Hòa thượng tại phương trượng Tòng lâm Quán Sứ, Bệnh viện Việt-Đức v.v… Hoà thượng khuyên nên niệm Phật nhất tâm, giữ gìn thiện căn công đức để tô bồi Đạo pháp, vững bước trên đường hành đạo và mãi mãi hiện diện trong Chánh pháp, với Pháp thân bất diệt của người tu. Những lời khuyên đơn giản, trầm tĩnh, thẩm thấu của Hòa thượng là những chất liệu quý để nuôi dưỡng giới thân, huệ mạng chúng con, không những đời này mà cho đến vô lượng đời sau cho đến khi giải thoát hoàn toàn. Nhất là tinh tiến hơn nữa trên lộ trình phụng sự Đạo pháp, phục vụ Giáo hội và chúng sinh, như Tổ Quy Sơn đã dạy: “Nguyện bách kiếp thiên sanh đồng vi pháp lữ”.








