Cảm niệm Ân sư


    Kính dâng Đức Đại lão Hòa thượng Đệ nhị Pháp chủ thượng Tâm hạ Tịch.


    Khách du xuân vào chùa đúng tầm trưa, với trụ trì là chỗ thân tình đã  nhiều năm nên giữ lại mời thụ trai. Mâm cơm chùa ngày tết cũng chỉ có mấy món rau dưa, canh chuối. Khách hoan hỉ ngồi cầm đũa đọc thơ đùa trụ trì.


    Tết


    Cơm chùa một đĩa rau xanh
    Đĩa kia đậu phụ, đậu nành rau dưa
    Làm sư – Ô ! thật sướng chưa
    Ăn chay nhẹ bụng, chẳng sợ thừa kí lô – cân.


    Khách đọc thơ xong còn cười nói: Đúng là thầy nào trò nấy, được nghe Cụ xưa cũng cả đời cơm rau. Nói xong khách biết đầu xuân ở chùa lỡ lời “quá thân mật”, hối! Để chữa lỗi cho khách và cũng để tỏ rõ tấm lòng tri ân, mùa xuân ngày rộng trong câu chuyện vui nhà chùa mới kể lại kỷ niệm xưa không phải để ôn cố, tri tân mà muốn tỏ tấm lòng thành kính Ân sư:


    Rau ngon


    Trong chuyện ăn Sư phụ không phải là người khó tính bởi đồ chay ai cúng gì Thầy dùng nấy. Song ở Thầy có đức tính mà anh em tôi không thể quên.


    Còn nhớ ngày tôi mới xuất gia, lúc đó đời sống kinh tế của đất nước ta còn khó khăn lắm, trong chùa cơm dưa muối nhưng quanh năm ít có bữa no, hôm nào nhà chùa được bìa đậu thì xem là có bữa ăn sang lắm và nếu có anh em tôi thường dành cho Thầy, bữa ăn nào có chút gì ngon, dù nhiều hay ít Thầy cũng dành một phần ra bát, sau đó mới ăn phần còn lại. Thầy bảo có món ngon để mấy anh em cùng ăn một chút cho biết. Thầy nói thế nhưng chúng tôi hiểu Thầy thương anh em tôi kham khổ.


    Có năm thời tiết xấu đến nỗi rau xanh chùa trồng cũng không lên được nên không có để ăn, nhà chùa vì ăn chay nên ngày nào cũng dùng hoa Thiên lý khô để nấu canh, thi thoảng mới có ít rau xanh nấu cho Thầy.


    Hôm nào ăn món canh hoa Thiên lý khô Thầy đều khen canh ngon, anh em tôi tưởng thật thành ra ngại đi xa tìm rau xanh nên cứ nấu canh Thiên lý mời Thầy.


    Phần thiếu cơm, phần thiếu rau xanh, ăn uống kham khổ và lại chăm lo nhiều cho học trò, đệ tử, Thầy tôi đổ bệnh. Khi thầy lang tới thăm bệnh nói với anh em tôi: “Các Thầy còn trẻ nên không biết Sư Cụ vì thương các Thầy, sợ các Thầy đi lại tìm đồ ăn vất vả nên mới khen canh hoa Thiên lý khô ngon chứ thực ra canh này đâu còn chất dinh dưỡng gì nhiều. Già nói thế, trẻ lại cũng vô tư tin thế!”


    Nghe ông thầy lang nói anh em tôi mới hay, ai nấy ứa nước mắt thương Thầy còn Thầy chỉ cười với ánh mắt chứa chan yêu thương.


    Theo thời gian, đất nước cũng có nhiều thay đổi, đời sống kinh tế khá dần và sinh hoạt nhà chùa cũng không còn khó khăn như trước, nhưng với Thầy vẫn như thế, kể cả khi Thầy là một cao Tăng được nhiều người trọng vọng thì mỗi bữa nếu có món gì ngon Thầy vẫn để phần riêng cho đệ tử trước khi ăn, không hề khác lúc còn khó khăn.


    Đã có lần anh em tôi nhắc Thầy: “Giờ thức uống đồ ăn không thiếu, Sư phụ cứ ăn không phải dành cho ai cả”, Thầy chỉ cười.


    Rồi một lần khi xuân đến anh em tôi tề tựu về làm lễ khánh tuế thầy, trong bữa cơm ngày tết, có người nhắc tới chuyện xưa, nhìn khắp lượt anh em tôi rồi thầy nhẹ nhàng cất tiếng: “Các con nhớ mình có một miếng ăn là nhờ công sức của người lao động, mình dù chay tịnh song còn có nhiều người vất vả, chưa có được bữa ăn như mình nên nhường nhịn là đức của nhà tu hành để trả nghĩa cho đời, những người khó khăn ở xa mình chưa giúp được thì chia sẻ với người bên cạnh còn thiếu thốn là việc nên làm. ‘Miếng ăn quá khẩu thành tàn’ biết chia sẻ miếng ăn và luôn chia xẻ miếng ngon cho người khác là việc tưởng dễ mà không phải ai cũng làm được. Nếu làm được điều đó, mọi trở ngại đâu có gì đáng kể”.


    Nghe thầy dạy mắt ai nấy đều rưng rưng, giờ ngồi với nhau thế này tôi lại thấy hiện về năm tháng cũ.


    Không quen mặc áo len


    Nhớ! Năm ấy trời rét lắm, người xuất gia được mọi người quan niệm: là  “tam y nhất bát” nhưng lúc đó khó khăn lắm, mặc còn chưa kín thì nhà chùa lấy đâu tam y cho những người mới vào chùa như anh em tôi.


    Thầy cho tôi đi học xa gần chục cây số, hôm nào trời không mưa còn đỡ, hôm mưa rét thì thật là lạnh thấu xương bởi một bộ nâu vá chằng vá đụp mà không kín người đi giữa đồng quang gió thổi mạnh tưởng như xé rách cả áo, thế nhưng không có ngày nào tôi bỏ học.


    Sáng đi học chiều về chùa, một ngày đi gần 20 cây số, ăn đói mặc rét, đi học lúc ấy không phải mình tôi mà nhiều người khác đều như vậy. Tối về chùa, lạnh quá anh em tôi nằm úp thìa lấy rơm rạ đắp vào người cho ấm bởi cả chùa chỉ có một chiếc chăn chiên đã sờn rách để thầy đắp.


    Thế nhưng buổi trưa dù lạnh mấy Thầy nằm cũng không đắp chăn mà chỉ ngả lưng độ 30 phút là dậy, Thầy nói đắp chăn ấm sợ ngủ quên.


    Một lần có vị thí chủ đi xa về vào chùa biếu Thầy chiếc áo len, áo len lúc ấy quý lắm. Thầy mặc áo len mới, đêm về anh em tôi ít nghe tiếng động do Thầy trở mình. Thế nhưng chỉ mặc được vài hôm thì Thầy gọi tôi lại rồi nói: “Thầy không ưa đồ len thì phải, mặc nó ngứa ngáy khó chịu lắm”.


    Tôi nói: “Sư phụ mặc ra ngoài cho đỡ ngứa”. Thầy bảo tôi “Nhà chùa ai lại mặc áo len ra ngoài, trông sao được”, và Thầy cứ nhất định bắt tôi mặc vào. Nghe lời Thầy tôi nhận áo len rồi mặc, trong chùa Thầy có nói cho mấy huynh đệ khác là Thầy không ưa đồ len và Thầy cho tôi mặc vì tôi phải đi học xa.


    Năm tháng trôi qua tôi cũng đã trở thành sư phụ của nhiều bậc đệ tử, ơn Thầy tổ, họ đều chăm ngoan hiếu thảo. Rồi có một lần tôi được một vị thí chủ tặng món đồ tôi rất thích, nhận món đồ được mấy ngày tôi chợt nhớ có đệ tử tôi rất quý cũng đang cần món đồ tôi có, và nếu có món đồ ấy với đệ tử của tôi sẽ hữu dụng hơn nhiều, tôi muốn cho đệ tử nhưng nghĩ nên cho như thế nào, bởi tôi biết nếu tôi nói cho, đệ tử sẽ không dám nhận.


    Nghĩ mãi, cuối cùng tôi chợt hiểu ra muốn tặng được món đồ chỉ còn cách nói món đồ ấy tôi dùng không hợp. Đệ tử của tôi nhận món đồ và tôi chợt hiểu: xưa Thầy cho tôi áo len, đâu có phải vì Thầy không hợp với đồ len mặc vào ngứa ngáy khó chịu mà vì Thầy thương tôi phong phanh áo vá một mình đi học xa giữa mùa đông giá lạnh. Nếu nói Thầy thương mà cho thì Thầy biết tôi không dám nhận, muốn cho chỉ có cách nói Thầy không ưa.


    Nghĩ lại mới thấy mình “Vô tư quá”, giờ trải qua mới hiểu, bởi chẳng bao giờ Thầy nói lại với tôi. Sâu sắc lắm, tình thương của Thầy với trò khó lấy gì so sánh được, tôi lặng người khắc cốt ghi tâm.


    Giờ Thầy đã về nơi miền cực lạc: Tháp lớn, lễ nhiều đâu phải thứ Thầy ưa, song để tỏ tấm lòng với ân đức của Thầy, anh em tôi xin Thầy: Bia đá tạc tên, tháp cao đựng cốt để lưu truyền hậu thế:


    “Đức Thầy sáng mãi
    Ơn Thầy cao dầy
    Tỏ cùng hậu thế
    Cao tăng thời nay”.


    Chuyện nhà đem kể “tự khen” nhưng thiển nghĩ làm người trong hoan hỉ mùa xuân, câu chuyện như nén tâm hương dâng thầy nơi cực lạc, thất thố điều gì cũng bởi thành tâm.


    Khách cười hoan hỉ, xin phép nhà chùa cho được đọc thơ:


    Xuân


    Lòng người phơi phới,
    Hương xuân thêm nồng.
    Chuyện xưa lưu lại,
    Tình đời mênh mông – Đẹp!


    Đọc xong, khách chắp tay xá dài tạm biệt.


    Trên tận cao xanh Sư phụ có mỉm cười, hoan hỷ.


    Tâm HốiBùi Hữu Dược – Vụ trưởng Vụ Phật giáo, Ban Tôn giáo Chính Phủ