Có lẽ máu thịt Kinh Bắc đang chảy trong con người Hoàng Cầm đã giúp ông có được những vần thơ rất gợi mà rất sâu ấy. Kinh Bắc là đất Phật, đất thiêng, nhưng Kinh Bắc cũng là đất của lúng liếng đa tình mà đằm thắm Việt Nam.
Quốc lộ 1A mới bây giờ đã nối thủ đô Hà Nội với thành phố Bắc Ninh qua Bắc Giang rồi tới thành phố Lạng Sơn để đi sang tận người láng giềng Trung Quốc, nhưng để khám phá xứ Kinh Bắc xưa với vẻ đẹp huyền ảo có phần mộng mị của nó, phải đi theo con đường 1A cũ, con đường dòng sông Tương huyền thoại xưa đã chảy. Ấy là con đường chùa tháp – cũng là con đường Quan họ xứ Kinh.
Từ ngã ba gặp gỡ giữa đường Nguyễn Văn Cừ của Gia Lâm với quốc lộ 5 và quốc lộ 1A, đi chưa đầy 10km nữa là tới xã Đình Bảng thuộc huyện Tiên Du. Đình Bảng thờ thần Đất, thần Núi, thần Nước và 6 vị có công lập làng từ thế kỉ 15. Đây là một trong những ngôi đình có kiến trúc đẹp nhất Việt Nam. Mái đình tỏa rộng với độ cao chiếm tới 2/3 tòan thể ngôi đình, tạo được một cảm giác hết sức khoáng đạt và uy nghiêm.

Đình Bảng có kiến trúc kiểu nhà sàn
Nền đình theo kiến trúc nhà sàn cách mặt đất 0,7 m bằng một dàn gỗ bề thế, khiến cho bên trong đình luôn mát dịu và đón được nhiều gió trời. Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như rồng, phượng, tùng, mai, trúc, bầu rượu, thanh gươm. Đặc biệt, hình tượng rồng chiếm một tỷ lệ lớn với số lượng khoảng 500 hình. Đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vươn xa nhất trong các công trình kiến trúc gỗ cổ truyền Việt Nam.

Thắp một nén hương lên các thần sông núi, chỉ đi chừng 500 m trên con đường nhỏ đã dải nhựa là có thể đến một ngôi đền nổi tiếng khác của xứ Kinh, đền Lý Bát Đế hay Cổ Pháp điện thờ 8 vị vua nhà Lý. Từ xa xưa, Cổ Pháp đã được liệt vào dạng “tam cổ” của Việt Nam: “Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp”.

Chính điện đền Đô
Giống như nhiều ngôi đình ở Việt Nam, đền Lý Bát Đế được cấu trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc” – Bao ngòai quần thể đình là hình chữ Quốc, và bên trong hình chữ Công. Các cụ trong làng kể lại, vào những ngày giỗ vua, không chỉ một lần những người dân trong làng nhìn thấy 8 đám mây trắng xếp thành dải nối tiếp nhau. Họ truyền nhau rằng đó là “bát đế vân du” – 8 vị vua hiển linh. Trong tâm thức những người dân, đó là linh hồn những vị vua vẫn luôn hiện diện đâu đó trên mảnh đất quê nhà.

Nhà thủy đình đền Đô
Khu ngoại thất đền Lý Bát Đế gồm thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đây là nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ này thông với sông Tiêu Tương xưa. Thủy đình đền Lý Bát Đế từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn là hình ảnh in trên giấy bạc “năm đồng vàng”.
…Đi xa hơn một chút, rời xa con đường chính khoảng 9km về đến thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du (bản thân những cái tên đã rất gợi, rất linh), sẽ gặp chùa Phật Tích. Phía trước sông Đuống trữ tình, phía sau núi Nguyệt Hằng nhấp nhô, chùa Phật Tích được coi là một “Đại danh lam” thời Lý. Đọc trên tấm bia của Chùa mới thấy, vào năm 1057, nhà Lý đã cho xây dựng ở đây một cây tháp cao mười trượng và một bức tượng mình vàng cao sáu thước. Qua thời gian, tháp đổ, tượng bong hết lớp vàng bên ngoài, lộ ra lớp bên trong bằng đá tuyệt đẹp, người ta đã xây dựng lại chùa như ngày nay.

Chùa Phật Tích
Pho tượng Phật A Di Đà là một tác phẩm điêu khắc hoàn mỹ của thời Lý: Tượng được tạo tác trong tư thế ngồi thiền “kiết già” trên tòa sen. Tượng có đầu nở, tóc xoắn ốc, tai to chảy, khuôn mặt trái xoan đẹp, đôi mắt phượng hiền từ khép hờ nhìn xuống, mũi dọc dừa cao đầy, môi mỉm cười độ lượng.

Tượng Phật A Di Đà chùa Phật Tích
Đài sen có 15 cánh to nở rộ; mỗi cánh sen được chạm một đôi rồng chầu vào hình Phật ngồi thiền trên đài sen hào quang tỏa sáng hình lá đề. Toàn bộ pho tượng Phật A Di Đà toát lên vẻ đẹp thanh toát, từ bi, thánh thiện và đã được các nhà nghiên cứu đánh giá là mẫu mực của tượng Phật cổ Việt Nam.
Tiếp tục hành hương trên con đường quốc lộ 1A cũ, về đến thành phố Bắc Ninh, không thể không một lần dừng chân trước một ngôi đền được người dân cả nước hành hương tìm về mỗi dịp đầu năm: đền bà Chúa Kho, tọa lạc lưng chừng núi Kho, xã Vũ Ninh.

Tam quan Đền Bà Chúa Kho
Đền thờ một nhân vật nữ trong lịch sử từng có công khai làng lập ấp, đặc biệt là giỏi tích trữ lương thảo, giữ kho thực giúp vua nhà Lý thắng giặc ngoại xâm. Người Việt Nam ngày nay thường về với “bà Chúa” mỗi dịp đầu năm để “vay” lộc, cầu cho cả năm làm ăn tốt lành, rồi cuối năm lại về một lần nữa để “trả” và tạ ơn “bà Chúa”. Tương truyền, “bà Chúa” thiêng lắm, nếu có “vay” mà không có “trả” thì năm sau làm ăn không thể tốt lành như năm trước.

Cùng một cuộc hành trình về với đất Phật này, không thể bỏ qua quần thể Chùa Bút Tháp. Từ thành phố Bắc Ninh, theo con đường liên tỉnh về tới huyện Thuận Thành, xã Đình Tổ nằm ven bờ sông Đuống, là đến với Bút Tháp. Điểm nổi bật nhất của Chùa Bút Tháp là chiều sâu ý tứ Phật giáo trong phong cách kiến trúc chùa.

Chùa Bút Tháp
Cụm kiến trúc trung tâm ở chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường “thần đạo” bao gồm tòa Tiền Đường, Thượng Điện, Cầu Đá, tòa Tích Thiện Am, Trung Đường, Phủ Thờ, tòa Hậu Đường và hàng tháp đá. Tất cả được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên. Sự bố trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện tư tưởng về giáo lý của đạo Phật, diễn tiến từ nhận thức suy lý đến thực hành chính nghiệm đã đạt được đến sự giác ngộ và giải thoát. Mỗi khi đi qua một cửa là khách hành hương đã bước dần vào ý đạo. Người thiết kế công trình này khi vẽ đồ án xây dựng hẳn đã đồng thời vạch ra một chương trình tu đạo cho các Phật tử.

Tháp Bút nổi tiếng được dùng để đặt tên chùa
Toàn bộ kiến trúc của chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Người Việt xưa có câu: “lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”. Đối với đạo phật, hướng Nam là hướng của trí tuệ, hướng của bát nhã, nhờ có trí tuệ, chúng sinh mới đến bến bờ giải thoát – niết bàn. Trong chùa, nổi tiếng nhất là bức tượng Phật Bà Quan âm nghìn mắt nghìn tay:

Chùa có kiến trúc tổng thể độc đáo, bố cục gọn gàng, chặt chẽ, sinh động – là một khuôn mẫu về sự kết hợp hài hòa kiến trúc của các chất liệu gạch, gỗ, đá, của sự hòa nhập giữa kiến trúc và môi trường thiên nhiên bao quanh.








