Đó là ngôi làng xa xưa nổi tiếng vì tài cất rượu ngon. Du khách sẽ nhìn thấy một ngôi chùa nhỏ thấp thoáng sau bụi trúc ven hồ.
Đó là chùa do dân làng này dựng năm Bính Dần. Trong chùa có một pho tượng Phật kỳ lạ khác thường, một tay ngài chống gậy, chân bước chập choạng như say rượu. Người ta gọi là chùa “Phật say”!
![]() |
| Hồ Dâm Đàm (Hồ Tây). Ảnh Internet |
Xa xưa, hồ Tây là một khúc sông Nhĩ Hà phình rộng thành hồ, nằm kẹp giữa thành Long Biên và bên kia là vùng đất Luy Lâu cổ kính. Các cụ bô lão kể rằng, trong những đêm trăng thanh gió mát, khi công việc đồng áng đã vãn, ngồi quây quần quanh những bếp lửa, người ta có thể nghe thấy cả những âm thanh huyền bí từ muôn năm trước vọng về.
Tiếng gọi gió gào mưa, kêu sấm giật chớp từ trên đỉnh một ngọn núi đá hiểm trở, nơi trú ẩn của con Chồn tinh chín đuôi chuyên ăn thịt người. Vua Lạc Long Quân đem thủy tộc đuổi theo, bao vây và cuối cùng, bắt được Chồn tinh nhốt tại vùng trũng dưới chân núi. Nơi giam giữ yêu quái hóa thành đầm, sóng duềnh lên như những lưỡi búa tầm sét bổ xuống mặt hồ bao la làm nước bắn tung tóe. Hồ có tên Lãng Bạc từ ấy – Hồ Của Những Con Sóng Lớn!
Theo những vị niên trưởng khả kính nhất kể lại, từ thời Hùng Vương, Dâm Đàm là một cái bến ở cạnh sông Cái – dòng sông Mẹ vĩ đại, thuộc động Lâm Ấp, thôn Long Đỗ. Cho đến tận thời Hai Vua Bà, cái bến nước trứ danh ấy vẫn thông với Nhĩ Hà. Xung quanh đó là những cánh rừng lim bạt ngàn với vô số hang động. Phía tây có động Gia La. Phía đông có động Nha Lâm. Phía nam có động Bình Sa và phía bắc giáp sông.
Các bô lão còn quả quyết rằng, địa thế Dâm Đàm cực đẹp, cực quý. Ở giữa hồ có một vùng nước xoáy bên gò Châu Long, nơi Rồng nhả ngọc phun châu, còn quanh hồ là các cuộc đất long-ly-quy-phượng. Chỗ này tựa trên thế phượng chầu, nơi kia tọa lạc trên thế rùa chầu. Riêng mấy làng Võng Thị, Hồ Khẩu lại nằm trên thế đất hình con cá nhô ra mặt hồ!
Đến đoạn này, câu chuyện vụt trở nên hào hứng, lôi cuốn khác thường với tích Trâu Vàng và một nhân vật có các hành trạng vừa bí ẩn kỳ dị vừa thâm hiểm độc ác, vừa có tên trong chính sử như một viên quan phương Bắc đầy cuồng vọng xuống cai trị Giao Châu, vừa xuất hiện trong ký ức dân gian như một tên phù thủy pháp thuật cao cường. Đó là Cao Biền mà dân gian hay nhắc tới mỗi khi muốn chế giễu những kẻ hấp tấp nóng vội bằng câu “lẩy bẩy như Cao Biền dạy non”…
Thủa ấy, trên núi Tiên Du xuất hiện Tinh Trâu Vàng-Kim Ngưu, đêm đêm tỏa ánh sáng chói ngời, rực rỡ. Có vị pháp sư lấy tích trượng yểm lên trán Kim Ngưu. Con Trâu Vàng vùng chạy, húc đầu làm đất sụt xuống thành làng Húc. Trâu Vàng phóng qua Văn Giang để lại sau lưng những khe ngòi, lạch rãnh, vũng Trâu Đầm và in dấu chân lên những làng Như Phượng, Như Loan, Đại Lạn, Đa Ngưu…Trâu lồng ra sông Cái, băng qua Ninh Giang, men phủ Lý Nhân tới sông Tô Lịch, gặp Hồ Sóng Lớn, nhao xuống bơi lội thỏa thích rồi ở luôn trong lòng hồ như đứa con lưu lạc vừa tìm được Mẹ…
Lúc đó, Cao Biền là Bột Hải quận vương – Tĩnh Hải công tiết độ sứ An Nam đô hộ, đắp tiếp thành Đại La làm lỵ sở. Biền xem phong thủy biết rằng Long Đỗ là đế đô của Giao Châu. Sợ đất này sẽ sinh ra Đấng Quân Vương hiền minh, anh hùng, họ Cao bèn làm ba đạo bùa vàng, bạc và sắt trấn yểm. Bỗng đêm đó trời sầm sập mưa to và đùng đùng gió lớn, sấm sét chớp giật đánh bật ba đạo bùa ấy lên khỏi mặt đất, nát vụn ra như hạt hẹ. Cao Biền cưỡi thuyền từ Nhị Hà đi vào cửa sông Tô Lịch, thấy ngay một vị thần cao mười trượng, mặc áo vàng, tay cầm kim giản, cưỡi trên lưng con Cù đỏ bay chập chờn trên đám mây. Lúc đó mặt trời đã lên cao ba trượng mà hơi mù chưa tan. Đến đêm Cao Biền nằm mộng thấy vị thần bảo:
– Ta là tinh Long Đỗ!
Họ Cao kinh sợ, than rằng:
– Ta phải trở về đất Bắc chăng!
Rồi lập đền ngay ở cửa sông mà thờ…Chính từ đấy, dân gian mới truyền tụng:
Trâu vàng ẩn mãi giữa hồ
Nước dù cạn vẫn mịt mờ tăm hơi
Bình yên Thánh Chúa ra đời
Cao Biền hạ bút, cất lời thở than…
Đất Thăng Long làm cho những kẻ tà tâm, lắm mưu ma chước quỷ kinh sợ bao nhiêu thì lại làm các vị phúc thần và đến cả Đức Phật say mê bấy nhiều.
Chẳng thế, nếu du khách đang xuôi thuyền dọc sông Nhĩ Hà bỗng nổi hứng, rời thuyền lên bộ, băng qua con đê xanh mướt cỏ xuân, vào thăm vùng hồ Dâm Đàm, hướng về một ngôi làng nhỏ nằm bên hồ. Đó là ngôi làng xa xưa nổi tiếng vì tài cất rượu ngon. Du khách sẽ nhìn thấy một ngôi chùa nhỏ thấp thoáng sau bụi trúc ven hồ.
Đó là chùa do dân làng này dựng năm Bính Dần. Trong chùa có một pho tượng Phật kỳ lạ khác thường, một tay ngài chống gậy, chân bước chập choạng như say rượu. Người ta gọi là chùa “Phật say”!
Du khách sau giây phút ngạc nhiên thú vị sẽ mơ màng nhìn ra mặt hồ buổi đầu xuân, ngẩn ngơ thầm nghĩ. Bây giờ ta mới hiểu vì sao, từ xưa đây là nơi ẩn trú của các vị thần linh và Phật đến đây còn say, huống chi là ta?









