Gánh nước giao thừa

    Đây là công việc “hệ trọng” không thể quên, dù nhà nào có bận nấu bánh trái hoặc mổ heo, gà hay làm gì chăng nữa, trước giờ cúng giao thừa cũng phải cắt cử người lo gánh nước. Tập tục này có ý nghĩa cầu phúc cho một năm mới bội thu mùa màng, của cải làm ra tràn đầy như nước đổ vào nhà. Không hiểu tập tục đó có được xem là một mỹ tục hay không, có điều sức sống bền bỉ của nó xem ra ngang bằng với cái giếng cổ đã mấy trăm năm tuổi của làng tôi.


    Làng tôi nằm sát ven sông, chuyên canh cây bông và dệt vải. Đấy không chỉ là con đất màu mỡ phù sa, mà còn là nõn nà Tết, là ngan ngát tình yêu, là ngút ngàn những thanh âm ngày xưa mẹ tôi đã gieo cấy trên cánh đồng bông vải. Chỉ mỗi tiếng gáo dừa khua lanh canh vào mái nước là tôi lại gặp mẹ mình dậy sớm vo gạo thổi cơm trước mỗi hừng đông. Chỉ mỗi tiếng gàu va vào thành giếng khuya là tôi lại thấy em reo vui giữa hội hè cùng các chị, các cô gánh nước đón giao thừa. Và con đường làng thơm lừng hương nếp, bánh trái; vàng rực ven sông hoa cải, hoa dưa, hay hối hả chuyến đò ngang chiều ba mươi đưa người qua sông kịp về với Tết… Chỉ có cái thế giới huyền nhiệm ấy mới vẽ ra con đường làm nên cuộc hội ngộ với ngày xưa yêu dấu, mới đủ sức xóa nhòa tuổi tác, biến tôi thành thằng oắt con huyên thuyên nói cười đến cay xè con mắt chưa thôi.

    Cứ mỗi lần Tết đến, những chiếc áo mới mẹ may cho chúng tôi mặc Tết là từ những cân sợi vải mẹ miệt mài bắn bông xe sợi và thức thâu đêm bên khung cửi. Cố nhiên là những tấm vải ta, vải thô, vải tám dệt ra là để chạy chợ bán buôn lo toan cơm áo trước hết, nên cái phần chắt chiu cho con một tấm áo Tết nào đâu phải dễ gì. Tuổi thơ tôi cứ hồn nhiên tung tăng áo mới đâu hiểu hết nỗi nhọc nhằn đời mẹ; đâu biết những ngày dài đạp nước – hồ sợi – xổ chẻ – đánh rời sợi phơi phóng cho khô rồi quay lại từng ống; đâu biết những đêm vắng lê thê, mẹ ngồi suốt bên khung cửi dệt với độc một ngọn đèn dầu.

    Bây giờ thì tôi và cái tâm tưởng đa đoan của mình đang chạy theo cuộc hội hè gánh nước đón giao thừa. Cái giếng cổ, có lẽ giờ đây là di sản duy nhất còn lại của làng tôi. Chạm vào từng phiến đá mòn những dấu tay người, lại nghe vang ngân tiếng gàu của mẹ, của em va vào thành giếng khuya xa vắng. Đấy là thứ âm thanh mà tôi gọi tên là “hồi âm của đất”, từ thăm thẳm giếng sâu sẵn sàng vọng lại tất cả tuổi tên mỗi khi nghe ai đó cất giọng. Tôi không còn nhớ nổi đã bao nhiêu lần đứng lặng hàng giờ bên giếng cổ, sau cái trò chơi trẻ con gập mình cúi đầu xuống khỏi miệng giếng, rồi hét to lên muốn vỡ cả giọng: “Ngày xưa ơi”. Lập tức, từ đáy giếng thăm thẳm khuất đầy rêu cỏ, “ngày xửa ngày xưa” trả lời cho tôi hàng chuỗi thanh âm “ơi… ới”. Đứng tựa vào thành giếng, tôi lặng im một cách ngẩn ngơ giữa khói sương trí nhớ chập chùng, loáng thoáng từng gương mặt thân yêu hiện về. Có thể đấy là mẹ tôi áo chàm bạc màu đang lom khom múc nước. Có thể đấy là em, là chị vây tròn thùng gánh quanh giếng hối hả, đợi chờ, to nhỏ chuyện dài chuyện ngắn. Dần hồi lớn lên, tôi hiểu chuyện các chị gánh nước đêm đêm, dẫu ngày thường hay ngày Tết đâu chỉ là gánh nước, mà còn là gánh hẹn hò, gánh tình yêu. Ai đó đã viết nên thơ: “Em ra giếng gánh nước trong. Còn anh ra giếng để… không làm gì”. Thú thật, tôi cũng đã từng bao lần ra giếng để… không làm gì. Ví như lúc này đây, kề bên giếng, nhắm con mắt mà tưởng tượng đã đời vẫn không hết ngày xưa!

    Cái làng bông vải đẹp như thi ca ngày trước nay chẳng còn lưu lại mấy dấu vết, huống là cái giếng cổ nhỏ nhoi ở một góc bìa làng. Sự hiện đại can dự vào tận bếp núc, hơi sức đâu mà gánh với xách. Dù vậy, đến mùa nghe Tết gọi, tôi vẫn đường quen về làng. Đi loanh quanh trên cái nền giếng cỏ dại um tùm, nhìn giếng cổ giống như cụ già ẩn dật giữa hoang vu. Ấy là, một phút sắt se mà tưởng ra. Còn trước mắt tôi bây giờ, cái giếng cổ lặng im một cách bí ẩn như phớt lờ tiếng thời gian đang xôn xao cùng cỏ dại…