Tôi vẫn luôn tâm niệm rằng qua 15 năm trên con đường học tập và nghiên cứu Phật học, sở dĩ mình có được chút thành tựu nhỏ nào thì cũng là nhờ may mắn có được ba phúc duyên lớn. Hai trong ba phúc duyên đó gắn liền với kỷ niệm của tôi với cố Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Tịch.
Được sinh ra trong một gia đình nông dân, ông cụ sinh thân tôi là một nhà Nho cuối mùa, sách vở chữ Nho nhiều lắm, phải cỡ gần một chục “quang sách” treo trên xà nhà, phủ đầy bụi và bồ hóng bếp, thỉnh thoảng bạn bè xui anh em tôi lại xé trộm mấy tờ dán diều vì giấy gió dai, nhẹ làm diều rất tốt, và mỗi lần bị phát hiện là một trận đòn roi đến nơi đến chốn, tất nhiên là phạt nhịn bữa… Sợ con lêu lổng sinh ra hư hỏng, lúc rỗi bố tôi đem Tam tự kinh với những câu: “Nhân chi sơ, tính bản thiện…” bắt chúng tôi học thuộc lòng. Trẻ con chưa học được bao nhiêu, ngại học, lại xấu hổ với bạn bè… vì sợ bố mà phải học, nhưng đến hôm nay, đã qua tuổi “tri thiên mệnh” rồi, ngẫm lại thấy đó cũng là một đại phúc duyên, có ích lắm. Vào đại học tôi học lịch sử, triết học duy vật biện chứng Mác-xít, học Anh ngữ,sau học Hán ngữ để phục vụ việc sưu tầm, khai thác sử liệu cổ sử. Với Phật giáo nói chung và triết học Phật giáo nói riêng, tôi chỉ biết sơ sơ, qua bài giảng đại cương của giáo sư Hà Văn Tấn, những bài viết của ông Phạm Quỳnh và ông Trần Văn Giáp đăng trên báo Nam Phong… ngoài ra chưa hiểu gì về Phật lý.
Vào năm 1990, tình cờ qua một anh bạn, lần đầu tiên tôi bước chân vào chùa Quán Sứ, được làm quen, và sau là thân, với một số vị Đại đức, Thượng tọa ở đây. Lúc này Phân viện Nghiên cứu Phật học đang khẩn trương tổ chức biên soạn bộ Từ điển Phật học Hán Việt. Thực đại phúc duyên, ngẫu nhiên tôi được mời cộng tác. Thực tình cho đến bây giờ nhiều lúc tôi vẫn không khỏi giật mình: Sao lúc đó mình lại liều như vậy! Kiến thức Phật học gần như là zero, lỗ mỗ dăm ba chữ Hán mà lại dám… Có lẽ nhờ công đức từ muôn kiếp trước nhờ chư Phật gia hộ tôi mới có được tâm “vô úy vô ngại”, để tinh tiến dấn thân trên con đường Phật học mênh mông sâu thẳm qua cơ duyên may mắn này.
Sau khi đã mon men được tới cửa Phật, Học viện Phật giáo Việt Nam được thành lập, tôi được Hòa thượng Viện trưởng phân công công tác giáo vụ và trực tiếp giảng dạy môn Triết học Mác – Lê-nin, và lịch sử triết học Trung Quốc. Đây chính là thời kỳ Hòa thượng Pháp chủ đã để lại trong và cho tôi hai kỷ niệm cực kỳ sâu sắc, góp phần quyết định tới việc định hướng nghiên cứu, giảng dạy triết học Phật giáo của tôi sau này, và cho tới hôm nay, tôi vẫn xác tín, đó là sự định hướng hoàn toàn đúng đắn.
Một lần, sau tiết giảng của triết học Mác – Lê-nin, tôi thả bộ giải lao hút thuốc ngoài sân chùa, lúc đó phòng nghỉ của Hòa thượng Pháp chủ ngay sát tường với giảng đường, bỗng thấy thầy thị giả của Hòa thượng ra bảo: “Hòa thượng mời bác vào xơi nước!”. Tôi thoáng giật mình, không biết có việc gì đây vì lần đầu tiên tôi được diện kiến Hòa thượng với cương vị trụ trì chùa Quán Sứ. Tôi thi lễ và có lời vấn an Hòa thượng. Vẫn thản nhiên tự tại trên sập nhai trầu, một bên là ấm trà, một bên là khay trầu đẹp cổ kính, với giọng nói ân cần từ ái, Hòa thượng hỏi thăm về quê quán, gia cảnh, công việc… Ngài nói: “Mấy hôm nay tôi thấy ông nói cái gì về vận động, mâu thuẫn, về biện chứng, phản ánh, cái tuyệt đối cái tương đối… cũng hay đấy nhỉ! Tôi thấy nó cũng từa tựa như lý vô thường, lẽ trung đạo, cái căn – trần trong Phật giáo chúng tôi. Tiếc rằng tôi già yếu rồi nhiều lúc nghe không rõ…”. Lúc này tôi thật sự giật mình, hoá ra mình nói gì Ngài cũng nghe cả, lại có những nhận xét đến ngạc nhiên. Dù sau đó có nghiên cứu hay giảng dạy triết học Phật giáo ở đâu, ở các trường đại học hay trong Học viện, tôi cũng luôn tự nhủ mình phải cố gắng làm rõ ràng hơn sâu sắc hơn cái “từa tựa” ấy.
Một lần nữa, ấy là sau một buổi dạy về lịch sử triết học Trung Quốc, tôi nhớ lúc ấy không biết từ bao giờ, có treo một tấm bảng gỗ sơn then đã cũ lắm ngay cạnh bục giảng, trong đó có khắc sáu câu trích trong cuốn Đạo đức kinh của Lão tử: “Cốc thần bất tử, thị vi huyền tẫn, huyền tẫn chi chi môn, thị vi thiên địa căn. Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần.” Nhân đó hứng lên tôi nói suốt buổi về những khái niệm căn bản của Nho, Phật, Đạo và mối quan hệ dung thông giữa chúng. Hết buổi chuẩn bị ra về, lại thấy thầy thị giả sang giảng đường bảo: “Hòa thượng mời ông sang xơi nước”. Lần này thì không “giật mình” nữa, vì đã mấy lần được trực tiếp hầu chuyện thoải mái bởi thiền phong ân cần dung dị mà sâu sắc của Hòa thượng rồi. Vừa bưng chén trà, Hòa thượng đi vào đề ngay: “Ông đã đọc Đạo giáo nguyên lưu chưa?”. Rất may là tôi đã được đọc qua và lại biết xuất xứ của nó… Hòa thượng nói: “Hay đấy ông ạ, nhưng nó không đơn giản như ông nói đâu! “Trong nơi danh giáo có ba” ấy, làm rõ ra, hay lắm, nhưng khó lắm!” như một công án khải thị. Cho đến hôm nay, khi viết những dòng này, tôi chắc rằng, cho đến cuối cuộc đời, vấn đề Tam giáo đồng nguyên, hay dung thông Tam giáo… vẫn còn là một vấn đề hấp dẫn, thôi thúc mình cầm bút.
Chùa Quán Sứ – Mạnh Đông Ất Dậu








