Chiều sâu văn hóa
"Tháng Giêng là tháng ăn chơi…"! Đã không ít ý kiến phê phán tập tục này với cái lý của họ. Song, "định hướng" như thế nào? Chắc chắn không là sự lặp lại điều mà tác giả của bài "Hội làng đã mất từ lâu" đã viết: Những con voi được đưa vào lò nung vôi, những cây cột đình hai người ôm không xuể cùng với những thượng lương chạm trổ tinh vi được xẻ ra xây trường, đóng bàn ghế… để rồi "Hội làng cũng mất từ đó… giờ chỉ còn lại trong ký ức của lớp người già!"
Có lẽ không chỉ trong ký ức của người già! Đã có những công trình nghiên cứu sáng giá khẳng định ý nghĩa sâu xa của lễ hội, một hoạt động văn hóa cổ truyền đã ăn sâu vào tâm thức người Việt.
Ngay từ năm 1941, trong bài "Tết Nguyên Đán của người Việt Nam" in trong "Indochine, Hebdomadaire Illustré. Paris số 75-76, học giả Nguyễn Văn Huyên đã viết: "Các gia đình, thông thường khép mình lại và bị giam hãm trong nỗi lo âu của đời sống hàng ngày ít nhiều ích kỷ, thì chìa rộng bàn tay cho nhau. Mọi người chúc nhau sức khỏe và hạnh phúc mà chẳng có ẩn ý gì cả. Và dường như ai cũng thấy ở sự thịnh vượng của láng giềng vẻ thanh bình và yên ổn của tất cả mọi người.
|
Người dân dự lễ hội đền Gióng. |
Trạng thái hưng phấn này, trong khi làm trẻ lại sự hiệp đồng xã hội, phải là phần mở đầu của những lễ hội mùa xuân sắp mở khắp nước bắt đầu từ ngày thứ tư [tức là ngày Mồng 4 Tết. TL].
Lịch của các lễ hội nông nghiệp và lịch sử to lớn này là bấy nhiêu sự tụ hội của thanh niên, rải ra trong ba tháng Âm lịch đầu tiên, và thậm chí ở một số nơi, kéo dài tới thượng tuần tháng Tư…
Trong khi đột nhiên kéo mọi người khỏi cuộc sống đơn điệu của họ, nó vừa khiến cho họ khẳng định sức mạnh của tinh thần gia đình, vừa làm trẻ lại sự hiệp đồng xã hội gắn bó "trăm nhà" với nhau ở xứ sở này có lẽ từ hàng nghìn năm.
Chính vì lý do đó mà nó vẫn còn sinh động ở nước ta, mặc dầu thời gian khắc nghiệt và những đóng góp chẳng ra đâu vào đâu của các khái niệm luân lý mới hay những phản xạ tâm lý mới".2
Người ta cố duy trì truyền thống mở hội làng, xem đó như khẳng định một nét riêng đặc thù của cộng đồng làng, nhân danh cái bản lĩnh riêng của cộng đồng đó mà tồn tại và phát triển. Vì vậy, hội làng từng là nhịp đập của sinh hoạt xã thôn:
"Hội chèo làng dặng đi ngang ngõ,
Mẹ bảo"thôn Đoài hát tối nay"
Hội làng trở thành một kết cấu văn hóa của làng xã Việt Nam bao đời. Người ta đã đưa ra con số thống kê có gần 500 lễ hội trên cả nước.
Vậy thì, có phải là "Hội làng đã mất từ lâu" không? Liệu "hội làng" đã "một đi không trở lại"? Hình như không phải vậy. Càng không phải với khuyến cáo: "muốn hội nhập, phải thoát khỏi văn hóa làng xã".4 Thậm chí quy kết hành vi phản văn hóa diễn ra trong lễ hội "hoa anh đào" ở Hà Nội dạo nào cũng là do văn hóa làng.
Chính văn hóa làng là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn Việt Nam, góp phần hun đúc bản sắc văn hóa dân tộc đã được vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm. Không có cái gốc đó, không thể có bề dày văn hóa hôm nay. Làm phôi pha hoặc đẩy tới sự thoái hóa của văn hóa làng trong quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa là những sai lầm cần phải chấn chỉnh.
Đừng quên rằng, làng của vùng đồng bằng Bắc Bộ "là nơi đã diễn ra sự hình thành của văn hóa, văn minh Việt Nam ngay từ buổi ban đầu và hiện nay vẫn là nơi mà văn hóa, văn minh Việt Nam bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống hơn cả trên con đường tiến lên phía trước…là vùng văn hóa quan trọng vào bậc nhất của nước ta".6
Nhận thức rõ điều đó để có thể hiểu được vì sao, sau mấy ngày Tết, đất nước lại đi vào những ngày hội lớn, làng quê tưng bừng lễ hội mùa xuân, một biểu hiện sống động của văn hóa làng đang được gìn giữ, thanh lọc và phát huy. Trong đó, có những lễ hội đã vượt qua phạm vi cộng đồng làng, trở thành một sinh hoạt tinh thần của một vùng hoặc rộng hơn nữa.
Nếu "làng ta mở hội thờ thần, chiêng khua trống giục xa gần vui thay" mà vị thần đó là một anh hùng dân tộc như Thánh Gióng ở Hội Gióng, như An Dương Vương ở Hội Cổ Loa sẽ là ngày hội của cả nước.
Ngoài ý nghĩa vui chơi giải trí, từ trong sâu thẳm của tâm thức Việt, trẩy hội là sự khơi dậy tinh thần dân tộc, thể hiện lòng tôn kính, biết ơn những vị anh hùng cứu nước, các tổ phụ ngành nghề, các danh nhân văn hóa….
Không thể vì những thiếu sót, những biểu hiện thiếu văn hóa trong việc "thương mại hóa" lễ hội, những xô bồ trong các "dịch vụ", kể cả ý thức của không ít khách thập phương, những "con nhang, đệ tử"… mà không suy nghĩ kỹ để thấy ra chiều sâu văn hóa cần được gìn giữ và phát huy.
Lễ hội lưu giữ và thắp sáng niềm tin
Hãy chỉ nói về lễ hội đền Gióng từ ngày Mồng 6 đến Mồng 8 tháng Giêng. Huyền thoại Thánh Gióng là một trong những hình tượng đẹp nhất về người anh hùng của nhân dân, tập trung cho ý chí và sức mạnh được hình thành và lớn lên trong nguồn mạch dân tộc, được nuôi dưỡng và phát triển trong lòng quần chúng nhân dân. Có thể mượn câu thơ của Cao Bá Quát: "Đánh giặc lên ba hiềm đã muộn. Cưỡi chín tầng mây giận chưa cao" để nói về điều ấy!
![]() |
Cậu bé làng Phù Đổng bay về trời nhưng vẫn để lại những dấu chân ngựa, với những bụi tre đằng ngà, tên gọi loại tre xanh đã bị cháy sém để ngả sang màu ngà trong ngọn lửa của ngựa thần phun ra đốt cháy giặc ngoại xâm.
Mỗi người Việt Nam đang lưu chảy trong huyết quản dòng máu con Hồng cháu Lạc phải nhìn cho ra những khoảnh ao nho nhỏ nằm trải dài giữa cánh đồng Quế Võ Bắc Ninh kia đích thị là những lốt chân ngựa thần của Thánh Gióng.
Nhìn cho ra những lốt chân ngựa của Thánh Gióng cũng như phải cảm nhận cho được truyền thuyết về 99 ngọn đồi và thêm 1 ngọn đồi để chẵn một trăm, ở vùng đất của Đền Hùng, Phú Thọ. Một ngọn đồi nằm lẻ loi cách dãy đồi nhấp nhô phía xa kia, mà ông cha ta truyền kể cho con cháu đó là con voi bị chặt đầu vì tội lìa đàn, quay đầu đổi hướng ngược với cả đàn, sự trừng phạt xứng đáng cho kẻ phản bội!
Ông cha mình gửi gắm lời răn dạy thật nghiêm khắc, tạc vào núi sông để nhắc nhủ con cháu phải biết cách giữ nước.
Bằng những truyền thuyết lung linh, ông cha ta đã ghi đậm dấu ấn của bản lĩnh quật cường trên từng cánh đồng, dưới mỗi mái nhà tranh, trong những ngôi đền cổ, để lắng đọng sâu kín trong đời sống tâm linh, trong tâm tưởng nghĩa tình dân tộc.
Huyền thoại ư? Nên gọi đó là ý chí, là khí phách, là tinh thần dân tộc đã thăng hoa vào trong huyền thoại. Và chính đó là văn hoá, là cốt lõi của văn hóa dân tộc.
Mà đâu phải chỉ chúng ta nói điều đó, một học giả Pháp, Giám đốc Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp đã nhắc ở trên, từ năm 1944 đã nói giúp chúng ta : "Từ đó vẫn tỏa ra phảng phất một hương thơm kín đáo, chất thơ tinh tế của những truyền thuyết Việt Nam"7 .
Huyền thoại đã biến thành lịch sử, tạc vào đất nước để nhắc nhở ý chí quật cường của dân tộc trong vị thế địa chính trị hiểm nghèo phải thường trực tinh thần cảnh giác…Những lễ hội mùa Xuân hàng năm đã lưu giữ và làm ấm sáng mãi niềm tin vào nguồn mạch vô tận của sức mạnh dân tộc Việt Nam ta,
Chính vì vậy, phải biết cách kế thừa, gìn giữ, thanh lọc và phát huy ý nghĩa cao đẹp của những lễ hội mùa Xuân đang diễn ra, để do đó biết cách thải loại những hủ tục, những tập quán lạc hậu đang được chế biến theo quá trình "thương mại hóa", "thị trường hóa" những hoạt động tín ngưỡng vốn ẩn chứa những sắc thái tâm linh lành mạnh thành những sản phẩm "buôn thần bán thánh" tạp nham gây nên những phản cảm tai hại.
Có cứng mới đứng được đầu gió
Rõ ràng cần phải có một định hướng đúng đắn trên một tầm nhìn văn hóa rộng mở trong thời đại của nến văn minh trí tuệ để kế thừa, tôn tạo và phát huy những giá trị văn hóa cao đẹp của các "lễ hội mùa Xuân" cũng như các "lễ hội" nói chung trong đời sống đất nước.
Phải đặt các lễ hội vào trong chiến lược khẳng định bản lĩnh dân tộc, vun đắp ý chí quật cường "có cứng mới đứng được đầu gió", "sóng cả không ngả tay chèo" trước Biển Đông muôn trùng sóng vỗ.
Và, nếu như văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả, thì những giá trị văn hóa của các lễ hội vốn có nguồn mạch từ nền văn hóa làng, cái nôi của bản lĩnh văn hóa dân tộc, cần phải được nhìn nhận một cách nghiêm túc.
Nên chăng cần có một chiến lược hiện đại hóa truyền thống gắn liền với truyền thống hóa hiện đại nhằm tận dụng những thành tựu của khoa học hiện đại, mà công nghệ thông tin là một ví dụ, để qua các lễ hội mà khơi dậy niềm tự hào dân tộc. Biết nâng niu, trân trọng những di sản quý báu của ông cha để lại bằng sự kế thừa, thanh lọc và nâng cao khiến cho lễ hội truyền thống đón nhận được hơi thở của thời đại.
Đi liền với việc đó là những giải pháp ở tầm chính sách quốc gia chứ không chỉ "khoán" cho ngành văn hóa du lịch và các địa phương có lễ hội lo liệu, nhằm chấn chỉnh, loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những hành vi cũng như các hoạt động phản văn hóa, các "dịch vụ buôn thần bán thánh" đang vượt khỏi tầm quản lý.
Phải đặt vấn đề gìn giữ và tổ chức các lễ hội trong bối cảnh hội nhập và phát triển của đất nước, trong đó văn hóa là một nhân tố có ý nghĩa rất lớn.
Chúng ta đến với thế giới bằng gì nếu không chủ yếu bằng văn hóa? Quả đúng là, càng hội nhập với thế giới lại càng phải biết cách giữ gìn và phát huy bản lĩnh văn hóa dân tộc. Một khi tự mình đánh mất bản lĩnh văn hóa thì cũng đừng tính đến chuyện hội nhập! Chưa lúc nào mà bản lĩnh dân tộc cần được khởi động bằng lúc này!
Khởi động từ quần chúng nhân dân, người sáng tạo ra lịch sử, nơi thúc đẩy sức năng động tự thân của dân tộc đến bộ phận lãnh đạo cao nhất của đất nước.
Phải bằng tầm nhìn đó để có định hướng và giải pháp đúng cho việc tổ chức các lễ hội mùa Xuân cũng như các loại lễ hội, sinh hoạt tinh thần phong phú và độc đáo của nhân dân ta, nhằm lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc ta.
—
Chú thích :
1,2,3,7 Nguyễn Văn Huyên. "Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam". Tập II. NXBKHXH. Hà Nội 1996, tr.9,tr.93, tr.138,
4. Báo Lao Động Cuối tuần số 7. 2008, tr.14
5. Báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh ngày 4.1.2008, tr.9
6. Đinh Gia Khánh. Các vùng Văn Hóa Việt Nam. NXB Văn Học. 1995. tr.56.
8.Nguyễn Đổng Chi "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam".Tập II. NXB GIÁO DỤC.2000,tr. 974










