Miền sáng đêm giao thừa

    Người già háo hức theo kiểu người già. Người trẻ theo kiểu người trẻ. Nhưng đặc biệt nhất là trẻ con. Trẻ con trong đêm giao thừa được tự do tham dự vào lễ hội trời đất. Trẻ con với thiên nhiên là một. Thiên nhiên và trẻ con không có khoảng cách. Cứ nhìn vào đôi mắt trẻ thơ là biết miền đất ấy hưng thịnh hay bại vong. Đôi mắt trẻ con biết nói. Mắt đứa nào cũng mở to, tròn đen lay láy. Những ngấn hạnh phúc ấy hướng về miền ánh sáng của đêm giao thừa.


    Đây là thời khắc thiêng liêng. Trời bàn giao công việc trông nom mùa màng, cai quản giống nòi cho đất. Đất bàn giao cho trời muôn hoa, muôn hương, muôn nghĩa cử. Ông trời ôm chặt lấy bà đất. Bà đất ghì riết lấy lưng ông trời. Hơi thở hai người phả ra, làm mở hết tất cả ba trăm sáu mươi tư huyệt. Trừ một huyện làm thông thiên địa. Râu tóc ông blời * lòa xòa hòa lẫn với mái tóc xanh dài mượt của bà đất. Giao thừa là một khoảng thời gian ngắn ngủi, mọi người hãy vứt hết cái cũ đi, đón rước cái mới về.


    Hồi còn trẻ con, tôi chỉ thích ngồi bên miệng lò nấu bánh chưng. Nhìn những chiếc lưỡi lửa lúc đỏ lòm, lúc xanh lè. Cái lưỡi lửa thè ra, dài loáng ngoáng. Chúng tích cực liếm quanh bàn chân, lên cổ chân gộc củi. Nó liếm qua liếm lại, liếm từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Liếm đến đâu gộc củi buồn đến đó. Chúng cùng bật lên tiếng kêu rên khe re… khừ rừ… Lưỡi lửa liếm đến đâu, gộc củi tiết ra nước sướng đến đó.


    Lửa làm cho không còn hình hài lá củi vừa bị bổ nữa. Lửa đã biến chúng thành than. Những hòn than hừng hực bốc ra sức nóng tức ngực. Nó thúc lên nồi bánh, nước lá dong âm ỉ lăn tăn sôi. Làm cho hơi bay loang ra ngan ngát mùi lá dong thơm cả một vùng.


    Cha tôi thắp nhang bên chân bếp lò. Hết đợt nhang này lụi, lại thắp đến đợt khác. Tôi hỏi sao phải làm thế hả cha? Cha tôi nói đấy là chiếc đồng hồ cổ xưa nhất. Mỗi nén hương tương ứng với một khoảng thời gian. Thắp hết năm ba lượt là nồi bánh chín nục chín kỹ. Hạt gạo hạt thóc sẽ ôm chặt, ôm khít khịt chồng lợp lên nhau. Bánh càng nục càng để được lâu và ăn càng ngon.


    Sực nhớ, bên trong nồi, tôi cũng có hai chiếc bánh. Tự tay mình đóng gói, nên nó vừa bé xíu, vừa méo mó xấu xí, không được đẹp như bánh từ bàn tay của mẹ và chị. Chiếc bánh của tôi nhí nhó như hai hòn đá cục. Nhìn bên này, nó như cái mặt cười. Nhìn bên kia, bánh đực mặt như gã thất tình sinh ra ốm nhớ. Trông bộ dạng hai chiếc bánh vui như hai thằng hề. Chắc giờ này hai chiếc bánh của tôi đang nhảy múa ở trong nồi, cùng với đàn anh đàn chị có cùng một tên gọi: Bánh chưng.


    Không biết bây giờ là mấy giờ mà hai mí mắt nặng như đeo đá. Chờ mãi gà vẫn chưa thèm cất tiếng gáy. Gà nhà tôi được tiếng chăm chỉ gáy sớm nhất làng. Cha tôi nói phải cố mà đợi cả làng vỗ cánh rồi mới được đốt pháo. Đốt sớm quá, pháo nổ riêng lẻ, làm cho đêm ba mươi giật mình. Ngài phật ý, cho rằng nhà này năm nay nảy nòi giở trò chơi trội. Chốc nữa ngài phù phép làm cho pháo nhà tôi tịt ngòi. Pháo tịt ngòi thì còn gì là tết nhất nữa. Giông cả năm cho mà xem.


    Từ ngày Nhà nước lệnh cấm pháo nổ, trẻ con làng tôi bèn nghĩ ra dùng súng đầu diêm thay cho pháo tép pháo đùng. Súng làm bằng gỗ, dùng que sắt kích hoạt. Đầu làm bằng van xe đạp. Ấy thế mà nó vẫn thay thế tiếng pháo nổ khơi khơi pọ pẹp một thời.


    Tôi nay đã chẵn bốn chục năm xa nhà, có đến ba chín đêm đón giao thừa ở những nơi khác, vùng khác. Thành thật mà nói, đối với tôi đó là những cái tết suông. Bánh chưng suông. Rượu thịt suông. Lời chúc suông. Và những cái gật đầu, mỉm cười, bắt tay… hoàn toàn không nêm mắm muối. Biết sao được. Xa quê hương là một điều bất đắc dĩ. Vì nhu cầu công việc. Vì hợp lý hóa gia đình. Vì hàng ty tỷ lý do chính đáng khác.


    Tôi nhớ có một cái tết được đón giao thừa cùng nhà thơ Phạm Tiến Duật ở chiến trường B2. Đấy là tết Quý sửu 1974. Ngày đó anh Duật đã quá nổi tiếng với những bài thơ viết ở Trường Sơn. Người đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần Báo Văn nghệ năm 1969, trở thành dấu mốc quan trọng cho chặng đường văn chương một thời. Anh trở vào thực tế ở mặt trận B2, cùng với nhiều văn nghệ sỹ tên tuổi khác. Năm đó anh Duật ở lại đón tết cùng anh chị em Phòng Tuyên huấn trung ương cục.


    Phải nói rằng đấy là cái tết tươm tất nhất trong cuộc đời lính chiến của tôi. Sau ngày ký kết hiệp định Paris về miền Nam Việt Nam. Việc đi lại không còn khó khăn. Hàng tết được chuyển theo đường công văn từ Hà Nội vào đến sân bay Tân Sơn Nhất, rồi chuyển tiếp lên Lộc Ninh. Nơi đại bản doanh của Bộ tư lệnh miền. Quà tết có đủ trà Hồng Đào, thuốc lá Tam Đảo, Điện Biên, Thăng Long bao bạc. Bánh bích quy bọc trong giấy bóng nhựa. Bánh chưng, thịt hộp, giò nạc, chả lụa, cơm tám… Đây là quà tết thuộc diện cán bộ cao cấp mới có. Cánh đại táo binh nhất hạ sỹ chúng tôi cũng được có phần.


    Sau bữa chiều liên hoan, chờ đến đúng mười hai giờ đêm, chẳng biết anh Duật kiếm đâu ra mấy thẻ hương thơm. Anh thành kính bật diêm lên đốt, rồi cắm hương lên vỏ bao thuốc lá. Tôi thấy anh lầm rầm khấn khứa. Ba nén tâm nhang hiện lên ba chấm đỏ. Ba chấm đỏ lặng lẽ tỏa ra màu mái rạ, màu lá chuối, màu hoa đào, màu áo nâu non, màu mái tóc bạc. Tất cả hiện dần lên, mờ dần đi. Chỉ còn lại nỗi buồn vượt hàng ngàn cây số ra tới ngoài miền Bắc.


    Chẳng ai bảo ai, chúng tôi cùng nhau giữa gìn im lặng. Im lặng cúi đầu như trước mặt mình là bàn thờ gia tiên. Ai cũng có một nơi đi về. Gia tiên là nơi khởi đầu của mỗi cuộc đời người. Cây có cội người có gốc là như thế.