Trang chủ Văn học Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Phật Giáo như thế nào? (Phần...

Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Phật Giáo như thế nào? (Phần ba)

63

 “… Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,


Loạn thế toàn sinh cửu úy nhơn …”


異  鄉  養  拙  初  防  俗


亂  世  全  生  久  畏  人


(U cư I)**   


Dịch:


… Quê người tỏ vụng phòng thế tục,


Đời loạn luôn sanh sợ mọi người…”


Đây là một kế sống an toàn dành cho những nạn nhân tha hương của thời thế loạn lạc, kẽo không vô tình sẽ làm đối tượng cho mọi sự đối đầu thù địch nghi ngờ. Hay chiến tranh loạn lạc cũng có thể đưa người về cõi chết hay tù tội, điều đó chúng ta không thể nào lường trước được. Ngay bản thân cụ Tiên điền Nguyễn Du cũng là nạn nhân của tù tội do oán ghét chế độ Tây sơn đang hiện hữu trước mắt cụ vào lúc bấy giờ mà ra:


 “ … Tứ hải phong trần gia quốc lệ,


Thập tuần lao ngục tử sinh tâm …”


四  海  風  塵  家  國  淚


十  旬  牢  獄  死  生  心


(Mỵ trung mạn hứng)**


dịch:


Gió bụi khởi khắp nơi, lệ nước nhà,


Lao ngục mười tuần, lòng lo sống chết …”


Chỉ có ngục tù Nguyễn Du tiên sinh mới có đủ thời gian để ngồi tư duy suy nghĩ về nỗi sống chết. Con người thì ai cũng có tâm lý ham sống sợ chết, đó là một thứ tâm lý bình thường, nhưng đối với cụ vì một chút tâm sự không biết ngõ cùng ai, vì nó sâu thẳm như dòng Quế giang dưới chân núi Hồng Lĩnh, đó chính là nỗi khổ tâm của cụ:


“… Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,


Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.”


我  有  寸  心  無  與  語


鴻  山  山  下  桂  江  深


(Mỵ trung mạn hứng)**


Dịch:


Ta có tấc lòng không biết bày tỏ cùng ai,


Vì nó sâu thẳm như sông Lam dưới núi Hồng.


Tấc lòng sâu thẳm như thế nào mà không biết đem nó ra để bày tỏ cùng ai? Cái sâu thẳm ở đây vì nguy hiểm khó nói ra, hay là cái sâu thẳm không ai dò biết được như đáy dòng sâu Lam dưới núi Hồng? Ở đây đối với cụ Nguyễn Du chúng ta có thể hiểu theo nghĩa nào cũng được, vì hiện thực một nghĩa và cũng có thế: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Đó là những nỗi đau của riêng cá nhân cụ Nguyễn Du; nhưng cũng có thể là nỗi đau chung của mọi người qua kiếp người. Thật ra cuộc đời đâu chỉ giới hạn trong những trạng huống có thể gây ra đau khổ như vậy đâu (nhơn tai), mà còn nữa: Nào là cái đau khổ vỉ thiên nhiên (thiên tai) có thể ập đến cho chúng ta bất cử giờ phút nào:


 “… Cố hương  hạn cửu phương nông,


Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng …”


故  鄉  亢  旱  久  妨  農


十  口  孩  兒  菜  色  同


(Ngẫu hứng IV)**


Dịch:


… Cố hương hạn hán hại nhà nông,


Mười đứa con thơ mặt xanh rờn…


Một thân một mình nơi tha hương đất khách, nhưng cụ vẫn canh cánh bên lòng về mười đứa con thơ tại quê nhà lâm vào thiên tai hạn hán mất mùa, không đủ cái ăn cái mặc, thân thể xanh như lá rau, không sắc tố hồng cầu do thiếu ăn. Và có gì đau khổ lo lắng hơn khi thân đang mang bệnh nặng nằm liệt giường, còn phải lo cái ăn cho mười miệng trẻ đang đói chờ ăn từ nơi quê nhà đang réo gọi nữa!


 “… Thập khẩu đề cơ hoành lĩnh bắc,


Nhất thân ngọa bệnh đế thành động …”


十  口  啼  饑  橫  嶺  北


一  身  臥  病  帝  城  東


(Ngẫu đề)**


Dịch:


… Mười miệng đòi ăn, bắc hoành sơn,


Một thân nằm bệnh, đông kinh thành …


Một thân một mình nơi đất khách lại bị bệnh, người thân không có, bạn bè mới nơi ở cũng không nhiều nên đành âm thầm chịu đựng với con bệnh cũ dằn dai, cô đơn buồn khổ trong những ngày xuân:


 “Trường đồ nhựt mộ tân du thiểu,


Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa…”


長  途  日  暮  新  遊  少


一  室  春  寒  舊  病  多


(U cư II)**


Dịch:


Đường dài chiều tối, bạn mới ít,


Xuân lạnh một nhà bệnh cũ mang…


Trong khi sống nơi đất khách quê người thân thì nhiều bệnh tật, tâm thì lúc nào cũng buồn bực, nhưng khi cụ đã về lại quê nhà rồi mà bệnh tật càng ngày càng tăng chứ không giảm và nổi buồn đau cũng theo đó mà tăng thêm, càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn:


“Đa bệnh đa sầu khí bất thư,


Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư …”


多  病  多  愁  氣  不  舒


十  旬  困  臥  桂  江  居


(Ngọa bệnh I)**


Dịch:


Mười tuần nằm khổ bên sông Quế


Nhiều bệnh nhiều sầu khí chẳng thông…


Không có buồn nào bằng cái buồn người bị bệnh nặng mà không người chăm sóc hỏi han và, như vậy bệnh càng nặng hơn. Nhiều lúc buồn quá cụ Nguyễn Du phải nghĩ đến làm sao tìm loại thuốc tiên nào để cụ uống cho mau lành bệnh, hoặc xin thấy được ánh sáng vi diệu hiển hiện chiếu xuống cõi trần gian phá tan màng u ám cho nhân loại được nhờ:


“… Thập niên túc tật vô nhân vấn,


Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm.


An đắc huyền quang minh nguyệt hiện,


Dương quang hạ chiếu phá quần âm.”


十  年  夙  疾  無  人  問


九  轉  還  丹  何  處  尋


安  得  玄  關  明  月  見


陽  光  下  照  破  群  陰


(Ngọa bệnh II)**


Dịch:


Mười năm tật bệnh không người hỏi,


Tìm đâu thuốc tiên luyện chín lần?


Mong hiện ánh sáng trăng màu nhiệm,


Ánh dương chiếu xuống phá quần âm.


Qua những bài thơ trích đoạn ở trên, chúng tôi chỉ trích ra một ít trong những số bài thơ chữ Hán được cụ Nguyễn Du gởi gắm tâm sự của mình vào những khổ đau buồn thương nỗi nhớ mà cụ đã trải qua trong những biến động của gia đình trong loạn lạc chia ly, nhà tan cửa nát, con thơ nheo nhóc đói khổ, thiên tai hạn hán, chiến tranh, tù tội, tật bệnh vây quanh suốt kiếp người cụ Nguyễn Du cũng như mọi người trong chúng ta. Chúng là những nguyên nhân đưa đến khổ đau cho nhân thế. Ở đây là những nguyên nhân trực tiếp giáng xuống đầu người, chúng có thể nhìn thấy rõ được:


“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,


Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.


xuân lan thu cúc thành hư sự,


hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.”


壯  士  白 頭  悲  向ẻ  天


雄  心  生  計  兩   茫  然


春  蘭  秋  菊  成  虛  事


夏  暑  冬  寒  奪  少  年


(tạp thi I)**


Dịch:


Nhìn trời tráng sĩ buồn đầu bạc, 


Kế sống, hùng tâm vẫn mịt mờ.


Xuân lan thu cúc thành chuyện huyễn,


Hạ nóng đông hàn cướp tuổi hoa.”


Những điều đó cụ Nguyễn Du cũng không ngoài ngoại lệ. Cụ buồn đau vì chí lớn, kế sống riêng cá nhân mình vẫn còn mờ mịt, cộng thêm gia đình ly tán mỗi người vì miếng cơm manh áo mà phải lầm than phiêu bạc khắp nơi nên đầu đã bạc lại bạc thêm. Đây là những điều mà chính Nguyễn Du tiên sinh đang kinh qua và chứng kiến trong chính cuộc đời của cụ, nỗi khổ đau buồn lo đến đỗi mới ba mươi tuổi mà đầu đã bạc trắng, trong khi công danh sự nghiệp chưa thành qua bài thơ “tự thán” cụ viết;


 “Sinh vị thành danh thân dĩ suy,


Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.”


生  未  成  名  身  已  衰


蕭  蕭  白  髮  暮  風  吹


(Tự thán I)**


Dịch:


Sống chưa thành danh thân đã suy


Lưa thưa tóc bạc gió chiều lay.


Chính vô thường mang lại cho chúng ta cái khổ đau. Qua đó, vì tâm tư ý nghĩ vô thường luôn luôn thay đổi (tâm vô thường), vì hoàn cảnh hiện tượng, vật chất chung quanh cuộc sống chúng ta vô thường luôn thay đổi (vật vô thường) chúng ta không giữ được, nên sinh ra đau khổ cho mọi người như chúng ta đã thấy qua những lời dạy của đức Đạo sư. Nguyễn Du tiên sinh thời gian nương nhờ nơi Quỳnh Hải, Cụ đau lòng khi nhìn đám cỏ xanh nơi quê người khi mùa xuân đến mà liên tưởng nhớ về Nam Phổ, nhìn nụ hàn mai mà nghĩ đến mùa xuân qua bài Xuân nhật ngẫu hứng.


 “… Nam phố thương tâm khan lục thảo,


Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai …”


南  浦  傷  心  看  綠  草


東  皇  生  意  漏  寒  梅


(Xuân nhật ngẫu hứng)**


Dịch:


Nhìn cỏ xanh thương tâm Nam Phổ,


Nhú mai vàng chớm ý Đông Quân…


Nhưng còn những nguyên nhân giáng tiếp mà chúng ta trong nhất thời khó hình dung ra được, đối với Cụ, Cụ nhìn thấy tất cả từ hiện tượng bên ngoài đến bản chất bên trong, đó chính là vô thường biến hoại, là thủ phạm chính cho mọi bất toàn trong cuộc sống của chúng ta, tạo ra không biết bao nhiêu là khổ nạn cho kiếp người:


“… Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,


Hình thế không lưu bách chiến danh.


Mạc hướng thanh hoa thôn khẩu vọng,


Điệp sơn bất cải cựu thời thanh.”


古  今  未  見  千  年  國


形  勢  空  留  百  戰  名


莫  向  清  華  村  口  望


疊  山  不  改  舊  時  青


(Vị Hoàng doanh)**


Dich:


Nước nghìn năm xưa nay chưa thấy,


Hình thể mất, còn danh trăm trận.


Đừng ngóng nhìn thôn Thanh Hoa nữa,


Điệp sơn như ngày nào vẫn xanh.


Triều đại nào tồn tại nghìn năm chúng ta chưa thấy! Ngay đến doanh trại Vị Hoàng ngày xưa là nơi đóng quân trấn giữ đời nhà Lê; nhưng nay hình thể quân trại không còn nữa, mà chỉ còn trên cái danh là nơi xưa kia đã từng xảy ra trăm trận chiến thôi. Đừng nhìn những cảnh đổi thay đó nữa mà hãy nhìn rặng Điệp sơn vẫn còn xanh như ngày nào! Bản chất của màu xanh thì không bao giờ thay đổi, nhưng chỉ thay đồi nơi hiện tượng hình dáng bên ngoài thôi. cũng giống như Triều đại thì có thể thay vua đổi chúa, thay đổi chế độ, chứ còn dân tộc đất nước thì muôn đời không đổi vì nó là bản chất. Trong cuộc sống có những thay đổi bình thường về hình thức chúng ta thấy được, nhưng cũng có những biến đổi tinh thần chúng ta không nhìn thấy được, vì nó thuộc về vô hình. còn hiện tượng thì luôn tùy thuộc vào thời gian mà thay đổi như:


“ Đào hoa đào diệp lạc phân phân,


Môn yềm tà phi nhất viện bần.


Trú cửu đốn vong thân thị khách,


Niên thâm cánh giác lão tùy thân…”


桃  花  桃  葉  落  紛  紛


門  掩  斜  扉  一  院  貧


住  久  頓  忘  身  是  客


年  深  更  覺  老  隨  身


(U cư I)**


Dịch:


Hoa lá cây đào rơi lác đát,


Nhà nghèo cổng đóng cửa liêu xiêu.


Ở lâu quên hẵn mình là khách,


Năm tháng càng qua thân càng già…”


Những hiện tượng như lá đào hao đào, cổng đóng, cửa liêu xiêu chúng ta có thể dùng mắt để thấy được cái thay đổi của nó; nhưng thời gian qua đi thì chúng ta khó mà hình dung được sự thay đổi này trong nguyên nhân, mà chỉ nhìn được qua kết quả của nó chúng ta mới nhận thấy được sự thay đổi của chúng. Thời gian vô thường đã tác hại và biến hoại tất cả từ con người đến mọi vật xung quanh trong cuộc sống, không gì là không bị lệ thuộc vào chúng: Hoa lá cây trái, nhà cửa, thân người nói chung là chỉ cho vật chất vật lý v.v… không gì không bị biến hoại thay đổi:


“Thập tải trần ai ám ngọc trừ,


Bách niên thành phủ bán hoang khư…”


十  載  塵  埃  暗  玉  除


百  年  城  府  半  荒 墟


(Bát muộn)**


Dịch:


“Mười năm bụi phủ mờ thềm ngọc,


Thành quách trăm năm nửa hoang tàn…”


Hay:


“…Thành quách suy di nhận sự cải,


Kỷ xứ tang điền biến thương hải…”


城  郭  推  移  人  事  改


幾  處  桑  田  變  滄  海


(Long Thành cầm giả ca)**


Dịch:


Thành quách đổi thay việc người đổi,


Bao cảnh ruộng dâu biến biển khơi…


Vô thường biến đổi luôn tạo ra những cú sốc đau cho những người cố chấp luôn muốn sở hữu mọi thứ về cho mình, cho bản ngã, cho cái ta trường tồn bất diệt mà nuôi lớn lòng tham lam, sân hận, si mê; biến chúng ta thành những kẻ nô lệ cho chúng mà đẻ ra không biết là bao nhiêu đau khổ đắng cay cho chúng ta, nhưng cuối cùng chúng ta sẽ được gì khi chúng ta nhắm mắt buông tay, cũng chỉ hai bàn tay trắng. Nguyễn Du tiên sinh đã nhìn ra được bản chất của mọi sự vật là vô thường mang đến khổ đau nên đã khuyên chúng ta:


“Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,


Do thị Thăng Long cựu đế kinh.


Cù hạn tứ khai mê cựu tích,


Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.


Thiên niên phú quý cung tranh đoạt,


Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.


Thế sự phù trầm hưu thán tức,


Tự gia đầu bạch diệt tinh tinh.[1]”


古  時  明  月  照  新  城


由  是  昇  龍  舊  帝  京


衢  巷  四  開  迷  舊  跡


管  弦  一   變  雜   新  聲


千  年  富   貴  供  爭   奪


早  歲  親   朋   半  死  生


世  事  浮   沈  休  嘆   息


自  家  頭  白   亦  星   星。


(Thăng Long 2)


Quách Tấn dịch:


Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ


Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô


Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa


Ðiệu mới xô bồ nhịp trúc tơ


Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt


Bạn bè lớp trước sống lưa thưa


Nổi chìm thế sự đừng tham nữa


Mái tóc mình đây cũng bạc phơ


Danh lợi quyền lực là những món mồi khá hấp dẫn đối với những ai ham danh lợi và quyền lực; rốt cuộc những thứ đó cuối cùng cũng để nuôi lớn lòng tham lợi, tham danh, tham quyền lực nuôi lớn bản ngã chúng ta mà thôi. Nhưng có ai trong chúng ta được cái này rồi mà không muốn đạt được cái nhiều hơn, cao hơn để bỏ đầy túi tham của mình không? Tâm lý thông thường của chúng ta là “được voi đòi tiên,” hay “đứng núi này trông núi nọ”, cũng với mục đích là để thõa mãn lòng thanh danh, tham lợi, muốn biến mọi vật chung quanh thuộc về sở hữu cá nhân mình, gia đình mình … Nhưng càng chạy theo nó thì những khổ nhọc cay đắng càng theo sau và, những oán đối củng tùy theo đó mà hình thành tạo thành nghiệp nhân oán đối với tha nhân theo sau đó. Chúng ta còn được gì sau khi nhắm mắt xuôi tay? cũng chỉ:


“… Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu,


Cổ mộ hoàn lương tam xích thu…”


伯  圖  泯  滅  千  年  後


古  墓  荒  涼  三  尺  秋


(Á phụ mộ)[2]


Dịch:


Mộ xưa ba thước thu cỏ lạnh


Nghiệp bá tan tành sau nghìn năm.


——————————————————————————–


[1] Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973. trang 170


[2]  Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn học 1996.