Trang chủ Thời đại Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh đất nước đi ra biển...

Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh đất nước đi ra biển lớn

Nếu đứng từ góc độ của một nhà tu hành, xa lánh trần tục, chuyên tâm tu tập thiền định thì vấn đề Việt nam có vào WTO hay không cũng không ảnh hưởng gì đến đời sống của họ, nhưng nếu như là người lãnh đạo Phật giáo, có ý nguyện hoằng dương chánh pháp, đem Phật pháp vào xã hội, ắt hẳn sự kiện Việt nam gia nhập tổ chức này có ảnh huởng rất lớn. Vì một khi kinh tế phát triển, nó sẽ là động lực thay đổi môi trường sống của con người, là nhân tố kích thích con người có nhu cầu cao hơn, cách suy nghĩ cũng khác đi.


Phật giáo muốn đáp ứng cho con người trong xã hội đó, cần phải mạnh dạn thay đổi những gì không còn phù họp. Như vậy, sự kiện Việt nam gia nhập WTO có ảnh hưởng đến Phật giáo, có thể là chậm hay mau, trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào cách hành xử của Phật giáo.


Lý thuyết Duyên khởi mà đức Phật đã chứng ngộ dưới cội cây Bồ đề đã lý giải điều đó. ‘Cái này có cho nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh” có nghĩa là, khi Việt nam gia nhập tổ chức WTO, thì bắt buộc Nhà nước Việt nam phải chấp nhận những nguyên tắc hoạt chung của tổ chức này. ‘Cái này sinh cho nên cái kia sinh’, có nghĩa là khi Việt Nam thực thi những hiệp ước chung và riêng này, nó là cơ sở thúc đẩy cho xã hội Việt Nam phát triển theo chiều hướng mới, công bằng và tự do hơn, trong đó có cả những vấn đề liên quan đến Tôn giáo, cũng sẽ họat động theo nguyên tắc cạnh tranh này. Tôn giáo nào đáp ứng được nhu cầu của người dân thì tôn giáo ấy sẽ tồn tại và phát triển, và ngược lại. Đây là điểm chúng ta cần lưu ý.


Trước tình hình đó, cách hành xử của Nhà nước Việt nam và cách hoạch định của các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt nam nghĩ gì về sự hội nhập này ? Phải chăng chúng ta cho rằng, Phật giáo là một hoạt động tôn giáo độc lập, không liên quan gì đến sự kiện gia nhập tổ chức WTO? Theo tôi, nếu suy nghĩ như vậy, chúng ta sẽ vướng phải một vài vấn đề mâu thuẫn khi chúng ta muốn bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc, thực thi tinh thần nhập thế, truyền bá Phật pháp. Điều đó có nghĩa là sinh hoạt của Phật giáo luôn gắn liền với xã hội, với đời sống con người. Như vậy, nếu như con người là đối tượng giáo dục của Phật giáo, xã hội là môi trường để thực thi tinh thần nhập thế, khi xã hội thay đổi thì Phật giáo cũng phải thay đổi cách nhận thức và phương pháp ứng xử để thích nghi với xã hội đó.


Nếu như một nửa hay hơn một nữa dân số VN là người theo đạo Phật, thì quan điểm và cách giáo dục của đạo Phật có vai trò không nhỏ trong sự nghiệp thúc đẩy xã hội phát triển. Theo tôi, đạo Phật với phương châm ‘lấy trí tuệ làm sự nghiệp’, tôn trọng sự hiểu biết của con người, đó chính là nhân tố tốt nhất để thức đẩy xã hội phát triển. Trên nguyên tắc chung là như thế, nhưng muốn thực thi được tinh thần này, điều đó còn tùy thuộc vào các sứ giả của Như Lai có giới thiệu đúng tinh thần giáo dục của đức Phật hay không.


Trước sự kiện lịch sử trọng đại này, Phật giáo VN cần thể hiện vai trò tích cực hơn để thể hiện tinh thần nhập thế của mình, phù hợp với sự phát triển của đất nước và xu thế hội nhập của thời đại trong giai đoạn hiện nay. Do đó, qua sự kiện Việt nam gia nhập tổ chức WTO, nó dự báo cho chúng ta một số vấn đề cần lưu ý. Thứ nhất, chính sách quản lý xã hội của nhà nước Việt nam sẽ có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực, tất cả mọi vấn đề sẽ được luật hóa . Thứ hai, Việt Nam từng bước tiếp cận các thị trường kinh tế thế giới, cũng có nghĩa là, các nền kinh tế thế giới cũng sẽ bước vào thị trường Việt Nam. Điều đó không đơn thuần chỉ là giao lưu về mậu dịch, mà còn giao lưu mọi mặt trong đời sống xã hội, đó là một qui trình tất yếu. Từ góc độ này, vấn đề văn hóa giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó sẽ tác động trực tiếp đến thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Cũng từ đó, xã hội Việt nam sẽ hình thành một số vấn đề mới, xuất phát từ sự hội nhập. Vì vậy, Phật giáo muốn tồn tại và phát triển trong xã hội mới đó, cần phải cải cách.


Trước nhất là mặt cơ cấu nhân sự, phải là những người có khả năng, không những chỉ có đức mà còn phải có tài, từ những con người này họ mới mạnh dạn tiến hành cải cách các mặt họat động không còn phù hợp trong Phật giáo, trong đó công tác giáo dục đào tạo và nghiên cứu luôn luôn giữ vai trò then chốt, định hướng cho sự phát triển của Giáo Hội. Có như vậy, Phật giáo Việt nam mới đủ sức đảm đương và giải quyết những Phật sự mà xã hội đang và sẽ đặt ra.


Trong quá khứ, nếu như Phật giáo đã song hành với vận mệnh của dân tộc Việt nam vì Phật giáo đã làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình với dân tộc, sáng suốt đề ra những phương giải quyết thích nghi với nhu cầu xã hội trước đây. Nhưng từ đây trở về sau, Việt nam là một đất nước có hòan cảnh xã hội mới, con người mới, suy nghĩ mới, nếu Phật giáo không đáp ứng được các nhu cầu xã hội đó, có thái độ bảo thủ thì Phật giáo có nguy cơ đánh mất vai trò của mình trong lòng dân tộc. Sự kiện Phật giáo Nam Hàn là một điển hình cụ thể.


Sự kiện Việt nam gia nhập vào thị trường thương mại thế giới là sự kiện mang tích lịch sử, đánh dấu sự “ra đi” của một nền kinh thế tập trung chậm phát triển và thay vào đó một nền kinh tế tự do, cạnh tranh trong bình đẳng. Khi đã nói cạnh tranh thì cũng bao hàm ý nghĩa rủi ro, nhưng không vì sợ rủi ro mà chúng ta ngăn cản bước tiến của đất nước. Sự kiện hội nhập này, nó có ảnh hưởng rất lớn và có thể nói là tòan diện đến mọi hoạt động, mọi lãnh vực của xã hội Việt Nam, sự nâng cao về đời sống kinh tế vật chất, sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật sẽ là yếu tố làm thay đổi toàn bộ lối suy tư và cách làm việc ở thế hệ trẻ. Nếu Phật giáo không nhìn thấy vấn đề này, và không kịp thời đào tạo một thế hệ kế thừa đầy đủ cả hai mặt: kiến thức Phật học và kiến thức xã hội, thì đó là nguy cơ cho Phật giáo Việt Nam. Theo tôi, kiến thức khoa học, đời sống vật chất cao không làm cản trở đến sự phát triển Phật giáo, sự phát triển đó không phải là nhân tố xấu cản trở đời sống tâm linh mà nó còn có thể là phương tiện đắc lực cho sự phát triển Phật giáo, cho sự tu tập. Việc xem sự phát triển về đời sống vậy chất và khoa học kỷ thuật là vật chướng ngại cho phát triển Phật giáo, cho sự thăng tiến tâm linh, khi nào chúng bị lợi dụng hoặc vận dụng chúng không phù hợp.


Nghĩ cho cùng, ai sinh ra đời cũng hai bàn tay trắng, lãnh thổ nào cũng bắt nguồn từ mảnh đất hoang sơ, nếu có khác đi chăng nữa cũng chỉ là vóc dáng của con người cao hay thấp, da trắng hay da đen, vùng đất bùn lầy hay khô cứng, khí hậu nóng hay lạnh. Nhưng có một điều khác hẳn là những con người đó, họ rút tỉa được gì từ mảnh đất mà họ sống, từ con người mà họ tiếp xúc, từ bầu không khí nóng lạnh đó và họ phải suy nghĩ gì làm gì trong môi trường sống đó. Sự hiểu biết và thái độ sẵn sàng điều chỉnh mình cho phù họp với thiên nhiên và xã hội mới là yếu tố cơ bản để cải thiện đời sống chính mình và xã hội.


Cũng vậy, khi Phật giáo từ Ấn độ truyền đến Việt Nam cũng không mang theo một sắc thái vật chất nào, nếu có đi chăng nữa thì chỉ là mấy quyển kinh Phật, một bầu nhiệt huyết, một trái tim thương yêu và một khối trí tuệ nhu nhuyến. Vốn liếng chỉ chừng ấy mà ngày nay Phật giáo ở Việt nam đã trở thành một tôn giáo của dân tộc. Với công sức của thầy tổ, cha ông của chúng ta dày công xây dựng đến thế, thế hệ của chúng ta hôm nay đã nghĩ gì và cần phải làm gì để không phụ lòng của người xưa đã dày công vun đắp?


Dẫu rằng biển khơi mênh mông và không đơn thuần chỉ có sóng to gió lớn, mà còn chứa đầy các yếu tố bất ngờ và nguy hiểm khác, nhưng chúng ta cần vững tin rằng, đất nước Việt nam dù có phát triển thay đổi như thế nào đi nữa, thì sự phát triển đó sẽ không đi ngược lại với truyền thống văn hóa của dân tộc. Và, Phật giáo Việt nam vẫn có người đủ đức đủ tài để góp sức, góp phần vào việc lèo lái con thuyền cũng đất nước, cùng dân tộc vươn ra biển lớn