Năm 1997, sau khi có sự giúp đỡ của UBPC AIDS của tỉnh và Tổ chức NAV cũng như sự khuyến khích của BTS, Phòng Tư vấn sức khỏe tại Tuệ Tĩnh đường Diệu Đế được ra mắt. TN và PT tham gia đã có chuẩn bị tốt tâm lý đối diện với người bệnh. Và khi những bệnh nhân có HIV/AIDS đến khám chữa bệnh và tư vấn thì họ thường có những cảm giác an toàn hơn về mặt tinh thần lẫn thể chất. Đấy là một thực tiễn mà mỗi ngày, tình cảm giữa người bệnh (HIV/AIDS) với TNPT trở nên thân thiết, gần gũi như trong một gia đình.
Năm 1998, được sự giới thiệu của Sở Y tế, UBMT tỉnh và NAV mời một số TN đi tham quan học tập tại Thái Lan lần thứ 2. Lần này do các TN có chuyên môn tham gia với mục đích là học tập kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực này của Tăng sĩ Thái Lan để về phục vụ cho bệnh nhân HIV/AIDS tại TT-Huế.
Năm 2000, sau khi đã đi vào hoạt động được một thời gian, với những ảnh hưởng nhất định đến với xã hội và người bệnh, TN, PT Phòng tư vấn sức khỏe thành lập Ban Quản lý Dự án gồm 8 vị TN chủ chốt dưới sự hỗ trợ và cố vấn kỹ thuật của Sở Y tế và UBMT tỉnh. Từ đó, chương trình hoạt động tư vấn hỗ trợ, chăm sóc người có HIV/AIDS của TN PT TT-Huế đã không ngừng phát triển.
Năm 2003, được Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, UNICEF VN đến Huế và tìm hiểu để thực hiện Dự án “Sáng kiến lãnh đạo Phật giáo”. Đồng thời, với kế hoạch đó của TƯMT và UNICEF VN, Tuệ Tĩnh đường Hải Đức hoàn thành cơ sở rất khang trang, có nhiều chức năng khám và chữa bệnh. Sau khi di dời Tuệ Tĩnh đường Diệu Đế lên để trả lại mặt bằng cho ngôi Quốc tự Diệu Đế, phòng tư vấn mới gồm 18 người do TT.Thích Hải Ấn làm Trưởng Văn phòng, cùng với 17 TNPT tình nguyện viên (TNV) chính thức đi vào hoạt động dưới sự hỗ trợ kinh phí và cố vấn chỉ đạo kỹ thuật của T.Ư MTTQVN và UNICEF VN. Từ đây, công tác tư vấn, chăm sóc những người bệnh HIV/AIDS của TNPT tỉnh Thừa Thiên-Huế thêm quy mô, mở rộng hơn và có tầm ảnh hưởng lớn. Nhiều TNPT TNV có hiểu biết nhất định về phương pháp chăm sóc, tự điều dưỡng sử dụng thuốc
Tiếng lành đồn xa, hàng năm, hoặc là được sự hỗ trợ của UNICEF VN, hoặc là NAV… các TN và PT đại diện tham gia các cuộc tập huấn, hội thảo quốc gia tại Hà Nội, Hải Phòng, TP.Hồ Chí Minh, hoặc tham dự các hội nghị quốc tế tại Bangkok-Thái Lan, Vientiane-Lào (2005), hay Toronto-Canada (2006)…
Năm 2005-2006 thành lập Ban Tiếp nhận và Điều phối Dự án do NAV khởi xướng, trong đó gồm một Ban Điều hành và Quản lý dự án (BĐH & QLDA) và 3 mảng hoạt động chính:
Mảng chăm sóc có 7 TN cùng 6 PT tình nguyện viên hàng tháng đi về các địa phương có người nhiễm/ảnh hưởng HIV để chăm sóc, hỗ trợ sửa chữa nhà cửa, nhà vệ sinh, giáo dục cộng đồng sống nề nếp, lành mạnh, tìm hiểu đời sống của người bệnh… Hàng tuần có các TN, PT về khoa AIDS của Bệnh viện Trung ương Huế chăm sóc người bệnh. Hoặc các TNPT nhóm chăm sóc trẻ hàng tháng đi về các địa phương có trẻ nhiễm/ảnh hưởng bởi HIV/AIDS chăm sóc cho trẻ…
Mảng xây dựng năng lực, nhằm đào tạo nhân lực, như tập huấn, hội thảo, thảo luận, tuyển nhân viên… Mục đích là nhằm không ngừng phát triển cũng như nhân rộng dự án, huy động thêm nhiều TNPT tình nguyện viên tham gia chương trình. Nên mỗi năm các TNPT có từ 4 đến 8 cuộc tổ chức tập huấn và 2 đến 4 cuộc hội thảo, thảo luận, họp nhóm đáp ứng được nhu cầu cung cấp TNPT TNV cho BĐH & QLDA để thường xuyên bổ sung lực lượng.
Mảng truyền thông, nhận trách nhiệm tổ chức truyền thông, hội thảo… Do nhận thức được “phòng hơn chống”, nên trong thời gian qua, mảng này đã thực hiện nhiều đợt truyền thông tại các hội trại huấn luyện huynh trưởng của Phân ban HDGĐPT tỉnh, mỗi hội trại quy tụ được hàng ngàn trại sinh là huynh trưởng tham dự. Các chiều Chủ nhật có 5 truyền thông viên là TN đến các GĐPT để tham gia sinh hoạt và truyền thông HIV/AIDS. Tổ chức hội thi tìm hiểu kiến thức HIV/AIDS cho đoàn sinh GĐPT, giáo dục truyền thông cộng đồng cho người bạn (người có HIV).
Tổ chức nhiều đợt truyền thông tại các trường Phật học tỉnh với số lượng TNS thường xuyên có trên 200 vị mỗi khóa. Với hy vọng là các TNS sau khi ra trường đi làm Phật sự có thêm kiến thức cơ bản về HIV/AIDS để truyền đạt lại cho hàng Phật tử, từng bước xã hội hóa công tác truyền thông.








