Trang chủ Nghiên cứu Tăng sĩ và chiếc áo Cà sa (2)

Tăng sĩ và chiếc áo Cà sa (2)

Ngay từ thời Đức Phật còn có Đề Bà Đạt Đa là đệ tử xuất gia của Phật lại muốn giết Phật để lên ngôi Pháp Vương lãnh đạo Tăng đoàn và số lượng Tăng sĩ theo Đề Bà Đạt Đa cũng không phải là ít huống chi là ngày nay đã cách xa Phật hơn 2600 năm, Phật Pháp suy vi, văn minh vật chất tăng trưởng sản sinh bao nhiêu dục lạc cám dỗ người tu, ma quân trá hình khắp nẻo để lung lạc Tăng chúng đưa vào ma đạo.
 
Trong kinh Đại-Bát Niết-bàn, trước khi nhập diệt, đức Phật ân cần chỉ dạy lần cuối, lưu ý cho Bồ-tát Ca-Diếp và các Thánh-chúng rằng trong hàng chư tăng Thinh-Văn vẫn có giả danh tăng và có chơn-thiệt tăng, có Trì-giới tăng và Phá-giới tăng, có hàng Tỳ-kheo Bồ-tát đáng tôn trọng của Phật, mà cũng có ma hóa hình Phật để chực chờ phá hoại Chính-pháp của Như-lai :
 
“Này Ca Diếp ! Sau khi ta vào Niết Bàn bảy trăm năm thì ma ba Tuần này dẫn dần sẽ hủy hoại, nhiễu loạn chính pháp của ta. Ví như người thợ săn thân mặc pháp phục, Ma vương Ba Tuần cũng lại như vậy, hóa làm hình dáng Tỳ kheo, hình dáng Tỳ kheo ni, hình dáng Ưu bà tắc, hình dáng Ưu bà di. Vua ma cũng lại hóa làm thân Tu đà hoàn… cho đến hóa làm thân A la hán và sắc thân của đức Phật. Ma vương dùng hình tướng hữu lậu này hóa làm thân vô lậu mà hủy hoại chính pháp của ta.”[22]
 
Bởi vậy cho nên trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy :
 
“Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như lai” (Nếu dùng sắc thấy ta, nương âm thanh mà tìm ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai).
 
Điều này đã được chứng minh qua câu chuyện giữa Tôn Giả Ưu Ba Cúc Ða và ma Ba Tuần. Sau khi Tôn Giả đã chiết phục điều phục được ma Ba Tuần, Ma Ba Tuần vui mừng nhảy nhót thưa Ngài rằng :
 
– Ngài khéo giúp con khởi tâm hoan hỷ. Thật là ân đức lớn. Nay xin Ngài hãy cởi mở vòng thây chết này.
 
Ngài bảo:
 
– Trước hết, Ta có một điều kiện mà ngươi phải làm, rồi sau đó mới cởi mở vòng thây chết. Từ đây về sau đến khi Phật pháp diệt tận, Ta không muốn nghe rằng ngươi vẫn còn não loạn chư tỳ kheo.
 
– Xin nghe lời dạy của Ngài.
 
– Ta còn một việc muốn ngươi làm. Ta tuy thấy pháp thân của đức Như Lai mà chưa từng thấy sắc thân vi diệu của Ngài. Ngươi hãy vì Ta mà hóa hiện làm thân Phật để Ta khởi tâm ái kính.
 
– Con cũng có một điều kiện. Lúc con hóa hiện làm thân Phật, xin Ngài chớ lạy con. Vì oai đức Ngài cao cả như voi lớn, còn con thì như cây Ỷ Lan. Voi lớn nếu dẫm đạp thì cây đó tan nát.
 
– Ta sẽ không lạy ngươi.
 
– Ðợi một lát, con sẽ vào rừng hóa hiện làm thân Phật như lúc xưa con đã từng gạt trưởng giả Thủ La.
 
Sau đó, Ngài cởi mở vòng thây chết cho ma vương, rồi khởi niệm muốn thấy thân Phật. Ma vừa vào rừng liền hóa thân làm Phật có đầy đủ tướng hảo trang nghiêm hào quang sáng chói. Hóa hiện làm thân Phật xong, ma vương lại dùng thần thông hóa nhiều thân làm ngài Xá Lợi Phất đi bên trái Phật, ngài Mục Kiền Liên đi bên phải Phật, ngài A Nan đi theo sau, ngài Ma Ha Ca Diếp, ngài Tu Bồ Ðề, v.v… một ngàn hai trăm vị đại A La Hán đi xung quanh Phật, rồi từ trong rừng tất cả đi ra, đến nơi ngài Ưu Ba Cúc Ða. Bấy giờ, Ngài liền chắp tay chân thành quán chiếu và nói kệ rằng:
 
“Ôi hởi quỷ vô thường
Không có tâm thương xót
Mà hủy hoại như thế.
Thân Phật là như thế
Vẫn hoại vì vô thường.”
 
Ngài nói kệ xong, chí tâm quán chiếu thân Phật mà quên đi lời hứa, nên đột nhiên năm vóc gieo xuống đất lễ kính. Ma vương thấy thế, thưa:
 
– Sao Ngài lại thất hứa!
 
Ngài hỏi:
 
– Hứa điều gì?
 
– Ngài hứa rằng sẽ không lễ lạy con, mà nay lại gieo năm vóc lễ bái!
 
Thế đó, thân Phật hảo tướng trang nghiêm có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp mà Ma vương còn giả được huống nữa là Tỳ Kheo!
 
Hòa thượng Thích Huyền Quang đã nhắc nhở hàng Tỳ Kheo về ý nghĩa của chiếc Y và khuyến tấn mọi người lo trau dồi giới thân huệ mạng, gìn giữ Thanh Tịnh Tăng :
 
“Thời của y mà Đức Thích Tôn quy định tuy ngắn, nhưng cũng đủ để các chúng xuất gia tìm cầu phương tiện cần yếu cho sinh hoạt thường nhật; không quá dài khiến sự tích lũy không trở thành hoạt mạng xa hoa, hệ lụy vật chất và do đó xa rời Thánh đạo. Cũng không quá ngắn để khiến cho nhu yếu trở nên thiếu thốn. Đó tuy là hình ảnh sinh động của Tăng già thời Thích Tôn tại thế, nhưng ý nghĩa sâu xa vẫn còn giá trị cho đến ngày hôm nay.
 
Trên 25 thế kỷ của truyền thừa mạng mạch Tăng già, những di huấn của Thế Tôn không vì biến thiên của xã hội, chủng tộc, nhân sinh mà thay đổi. Dù rằng, cạnh tranh sinh tồn vẫn còn như là lẽ sống của muôn loài, tích lũy và thụ hưởng vẫn còn là động lực của tiến hoá xã hội; nhưng, chúng đệ tử của Thế Tôn sống y chỉ trên bốn Thánh chủng, không vì sinh kế tà mạng để tự buộc ràng mình vào guồng máy cạnh tranh, cho đến khi tự mình trở thành kẻ nô dịch cho thế gian sai sử mà không hay. Như thế, không những đã làm hủy hoại huệ mạng của chính mình, mà còn làm tổn thương đến Tăng thể.”  [23]

Hòa thượng Thích Huyền Quang còn dạy :

 
“Chư vị Tôn đức, Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử hãy tinh cần tu học, nỗ lực quán chiếu để phát khởi tuệ giác như thật nơi mỗi chúng ta để thấy rõ nẻo chính đường tà, không để danh lợi phù phiếm, quyền lực thế gian chi phối đánh mất lý tưởng thượng cầu hạ hóa của người con Phật.”[24]
 
Vậy mỗi Tỳ Kheo hãy lấy lời dạy Phật Tổ mà soi lại bản thân mình vì "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha tắc" (Soi lại nơi mình là bổn phận, không từ nơi người mà được- Tam tổ thực lục). Thiền Sư Hương Hải (thời vua Lê Dụ Tông – Việt nam) dạy rằng :
 
“Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Tương lai diện thượng đổ sư nhan.”
(Hằng ngày quán lại chính nơi mình
Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh
Trong mộng tìm chi người tri thức
Mặt Thầy sẽ thấy trên mặt mình.)
 
Riêng bản thân tôi Y áoCà Sa lại gắn liền với kỷ niệm ân tình với Sư Phụ. Thuở sinh tiền Người thường lo may Y Phục cho tôi. Tôi còn nhớ trước khi tôi thọ giới tại Đại giới đàn Ấn Quang tôi đến đảnh lễ xin phép Người khi ấy Người đang đau dưỡng bệnh ở Chùa Giác Uyển chờ nhập vào Bệnh Viện Chợ Rẫy, Người tặng cho tôi mấy xấp vải vàng Người đã thọ nhận những lúc Trai Tăng ở Quá Đường để may y áo với lon sữa và dạy :
 
“Còn mấy ngày nữa là con sẽ thành Tỳ Kheo, thành Ông Thầy. Hãy làm một Ông Thầy nên thân nên thể. Luôn nhớ giới luật mà hành trì theo. Tui già yếu sống nay chết mai không biết thế nào. Con là người đầu tiên trong chúng điệu lớp sau này thọ giới, hãy tu học làm sao làm gương cho đàn em noi theo và không phụ của đàn na tín thí. Làm một Ông Thầy không nên dáng là hổ thẹn Tông Môn”
 
Rồi sau này, khi tôi đảnh lễ xin ý kiến của Người về nguyện vọng đi du học Ấn Độ của tôi,Người dạy: “Học Tàu, học Ấn, học Tây học gì cũng tốt, ở Việt Nam ở Nga, ở Mỹ cũng được, miễn làm sao còn giữ chiếc áo đó là được rồi”
 
Những năm tôi ở Ấn Độ, Người vẫn tiếp tục gửi áo qua cho tôi mặc.
 
Đệ tử xuất gia ngày xưa của Người đã nhiều người không “giữ được chiếc áo” và hoàn tục nhưng vẫn còn biết quý kính và hộ trì Tam Bảo. Như vậy vẫn tốt hơn là những người tiếp tục giữ chiếc áo mà không sống cho xứng đáng với Ý nghĩa cao quý của nó, dù vẫn còn hình tướng Sa Môn mà không theo đúng Giới Pháp của Sa Môn.
 
Cho nên, nếu Tỳ Kheo nào cảm thấy nghiệp mình nặng không đủ sức để gìn giữ trọn vẹn phẩm hạnh xuất gia thì có thể hoàn tục để trả lại sự thanh tịnh cho Tăng chúng, điều này là thuận pháp để khỏi mang nợ đàn na tín thí chập chồng  như trong Kinh Đại Bảo Tích có ghi : “…có năm trăm Tỳ Kheo xả giới hoàn tục.Các Tỳ Kheo khác quở rằng: Ở trong Phật pháp nếu chư Ðại Ðức bỏ mà hoàn tục là phi thiện là phi pháp.
 
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: "Các ông chớ nói như vậy.Tại sao, vì làm như vậy gọi là thuận pháp.Nếu Tỳ Kheo chẳng muốn thọ của tín thí mà thối lui hoàn tục thì gọi là thuận pháp.Các Tỳ Kheo kia vì tâm tín giải nhiều nên sinh lòng hối lỗi.Họ nghe lời dạy trên kia rồi tự suy nghĩ chúng ta hoặc có thể hành bất tịnh hạnh mà thọ của tín thí, chúng ta phải sinh lòng hối lỗi thối lui mà hoàn tục.”[25]
 
Thưa Sư Phụ! Người đã về cõi Phật nhưng áo cà sa may từ mảnh vải Người cho, những chiếc áo Thầy chùa do Người may nay con vẫn còn giữ với tất cả tâm tình Người nhắn gửi. Lời dạy bảo ân cần của Người vẫn còn văng vẳng bên tai : “Hãy làm một Ông Thầy nên thân nên thể. Luôn nhớ giới luật mà hành trì theo”, “… ở Việt Nam ở Nga, ở Mỹ cũng được, miễn làm sao còn giữ chiếc áo đó là được rồi” là sự bảo hộ của Người tiếp cho con thêm định lực vững bước trong dòng đời dù có nhiều biến thiên nghịch cảnh, con xin nối tiếp bước đi Phật Tổ, Chư Tôn Đức nối chí Tông Phong và trong hành trang vượt qua dòng sinh tử con luôn mang theo chiếc áo Cà Sa bên mình với tâm niệm :
 
Thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, phụng trì Như lai mạng, quảng độ chư chúng sinh” (Lành thay áo giải thoát, áo ruộng phước tối thượng, phụng hành lịnh Như lai, hóa độ cho tất cả)
 
Mỗi vị Sa Môn vào trong Giáo Pháp của Phật, mặc áo Cà Sa, ở trong chùa rồi sẽ tu tập tiến triển thăng hoa Đạo hạnh để được “Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai”, Nhà Như-Lai chính là tâm từ bi lớn đối với trong tất cả chúng sinh, y Như-Lai chính là lòng nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như-Lai chính là nhứt thiết pháp không. Đó mới thật là nơi an trụ còn tất cả những cái gì "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng"  (Phàm ở đời, cái gì có hình tướng thảy đều là hư vọng). Chiếc áo Cà Sa và Tăng Sĩ cũng như tướng và thể, hình thức và nội dung.
 
Chiếc áo không làm nên Thầy Tu nhưng Thầy Tu không thể rời chiếc áo. Rời y mà ngủ một đêm đã là phạm giới như lời Đức Phật dạy: "Nên biết rằng: Như Lai Ứng Cúng là người an lạc bậc nhất, xuất gia ly dục là niềm vui bậc nhất, tùy theo chỗ mà ở, lúc đi khất thực phải đem theo ba y và bát, ví như đôi cánh của chim luôn dính sát vào thân. Tỳ kheo các ông đã từ bỏ dòng họ cũ, vì lòng tin xuất gia, thế nên, hễ đi đến đâu phải đem pháp y theo bên mình, không nên lìa y qua đêm”[26].  Y Bát là dấu ấn của Phật Tổ. Mỗi vị Tăng sĩ hãy tinh cần tu học để làm chói sáng Cà Sa chứ đừng làm hoen ố, hủy hoại Ý nghĩa cao quý của chiếc Cà Sa mà phải chịu trầm luân muôn kiếp. Làm thế nào để xứng đáng mặc áo Cà Sa? Hãy luôn tâm niệm và thực hành lời dạy của Phật :
 
"Ai rời bỏ uế trược,
Giới luật khéo nghiêm trì,
Tự chế, sống chơn thực,
Thật xứng áo cà sa”  [27]
Chùa Lục Hòa, 
Boston, Hoa Kỳ, 
Mùa An Cư PL 2549
 
Tôi viết bài : “Tăng Sĩ và Chiếc Áo Cà Sa” cốt để nhắc nhở bổn phận tu học của mình trong mùa An Cư cũng như cả đời sống xuất gia và xin chia xẻ đến những ai quan tâm tìm hiểu về ý nghĩa của Y Phục Tăng Sĩ Phật Giáo.

[1] Võ Đình Cường, Ánh Đạo Vàng, Chương V
[2] Nhớ ơn Phật, Nghi thức thọ trì, Hệ Phái Khất Sĩ
[3] Tứ Phần Luật, Phần III, Chương VI, Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm, Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng, Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
[4] Thanh Tịnh Đạo Luận, Chương II,Bhadantacariya Buddhaghosa, Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải
[5] Tứ Phần Luật, sđd , có thể tham chiếu Buddha the Gospel, The Regulations, By Paul Carus, Chicago, The Open Court Publishing Company tại địa chỉ : http://www.buddhistinformation.com/buddha_the_gospel.htm 
[6] Luật Ma Ha Tăng Kỳ, Quyển thứ tám, Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La cùngSa Môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Phước Sơn, Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
[7] Tình đời, Ý đạo (Cuộc đời Thánh tăng Ananda), Hòa thượng Hộ Giác
[8] Theo Mahàvagga 8, 23, Ðại Phẩm Tạng Luật số 8, 23
[9] Theo Mahàvagga 8,12, Ðại Phẩm Tạng Luật 8, 12
[10] Nghi Thức Tụng Niệm, Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam, Tự Viện Liên Hoa, Irving, Texas USA ấn hành 2002
[11] Qui sơn Đại viên thiền sư cảnh sách, Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
[12] Kinh Pháp Cú, Phẩm Hoa, Thi Kệ số 54
[13] Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Hai, Bài Thứ 3, Vô Thường, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
[14] Kinh Pháp Cú, Thi Kệ 49
[15] Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Chương III
[16] Kinh Bát Ðại Nhân Giác, Kinh Tám Ðiều Giác Ngộ của Bậc Ðại Nhân
[17] Vô Ngã là Niết Bàn, HT Thích Thiện Siêu
[18] Lược ghi theo  Kinh Đại Bảo Tích,XIV Pháp Hội Bửu Lương Tụ, Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo, Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
[19] Pháp Cú Kinh, Thi Kệ 264
[20] Kinh Đại Bảo Tích, XIV Pháp Hội Bửu Lương Tụ, Phẩm Sa Môn Thứ Nhất, Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
[21] Kinh Đại Bảo Tích, XIV Pháp Hội Bửu Lương Tụ, Phẩm Sa Môn Thứ Hai , Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
[22] Kinh Đại Bát Niết Bàn, Quyển thứ bảy, Phẩm thứ chín : Tà Chính, Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, Việt dịch:Tuệ Khai cư sĩ , Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
[23] Thông Điệp Vu Lan PL. 2548 của Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
[24] Thông Điệp Phật Đản PL. 2549 của Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
[25] Lược ghi theo Kinh Đại Bảo Tích,XIV Pháp Hội Bửu Lương Tụ, Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo, Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
[26] Luật Ma Ha Tăng Kỳ, Quyển thứ tám, Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La cùngSa Môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Phước Sơn, Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
[27] Pháp Cú Kinh, Thi Kệ Số 10