Trang chủ Văn hóa Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội: Hằng số văn hóa...

Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội: Hằng số văn hóa Việt Nam

Lần đầu tiên ở giữa thế kỉ thứ VI, trung tâm Hà Nội có dáng hình một thành thị cổ, một dáng hình văn hóa đô thị Việt Nam. Độc lập tạm thời và do đó thủ đô cũng tạm thời…

Phải chờ đến mùa Thu năm Canh Tuất, 1010, trung tâm Hà Nội mới trở nên kinh thành, Thủ đô nước Việt Nam độc lập, đang trên đường phục hồi dân tộc, phục hưng văn hóa. Sau một ngàn năm Bắc thuộc, Thăng Long, thành phố Rồng bay chính thức trở thành trung tâm văn hóa Đại Việt, trung tâm Kẻ Chợ của một hệ kẻ quê văn hóa xóm làng – văn minh lúa nước, trung tâm hội tụ và đan xen văn hóa địa phương cùng các yếu tố ngoại sinh, tiếp thu từ Trung Hoa, Ấn Độ, Đông Nam Á rồi phương Tây tư bản để nhào nặn và kết tinh thành văn hóa Thăng Long – Hà Nội. Đó là một sắc thái tiêu biểu của văn hóa Việt Nam.

        Cột cờ Hà Nội.                                                   Ảnh: Duy Tường


Bản chất của văn hóa là đa dạng. Thống nhất Việt Nam là thống nhất trong đa dạng, với trục tâm cốt lõi là Thăng Long – Hà Nội.

Tiếng Hà Nội là tiếng nói Việt Nam tiêu biểu, điển hình, tiếng nói dân tộc. Tiếng Việt là thống nhất từ Bắc đến Nam, nhưng có nhiều phương ngữ khác nhau về giọng nói, sắc điệu thanh âm, khác nhau về một số từ, con chữ… Tiếng Hà Nội không giống bất cứ một phương ngữ nào của tiếng Việt. Nó là một thành tựu văn hóa, một kết quả giao hòa tổng hợp và sáng tạo mới của mọi phương ngữ.

        Xin chữ ngày Xuân.                                            Ảnh: Vĩnh Cát


Hà Nội như các nhà địa lí học nhận định, là Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, của miền Bắc Việt Nam trước khi lớn lên cùng với sự lớn lên mở nước của dân tộc – thành trung tâm đầu não của cả nước, Đông, Nam, Đoài, Bắc mỗi vùng đều có một trữ lượng folklore (văn hoá dân gian) phong phú như ca dao, tục ngữ, dân ca, chèo, múa rối, truyện cổ tích… Toàn bộ trữ lượng văn hóa dân gian ấy được chuyển dồn về trung tâm Hà Nội, kết tụ và chọn lọc nâng cao trên cái nền đã có sẵn của vùng non nước Hồ Tây – Hồ Gươm, núi Nùng, núi Khán mà trở thành folklore Hà Nội. Triều đình Lý, Trần đưa việc thờ cúng các anh hùng dân tộc như Phù Đổng, Hai Bà Trưng, Bố Cái (Phùng Hưng), Mai Hắc Đế… về giữa phố phường và xóm trại ven đô. Dân dã về Hà Nội sinh sống lại đưa thần diệu của làng xóm mình về kinh kì Kẻ Chợ, kèm theo đó là các lễ hội dân gian. Sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, xã hội của Thủ đô do vậy mà phong phú nhiều dạng vẻ. Nhà nước dân tộc Lý – Trần – Lê lại nâng các lễ hội đua thuyền, đấu vật, hất phết, tung còn, múa rối nước, múa chạy đàn dân gian lên thành quốc lễ, có đội hình chuyên hóa, có sân khấu đàng hoàng, có phục trang sang trọng hơn. Văn hóa dân gian không tách rời mà kết hợp, hòa hợp với văn hóa cung đình và được "chính thức hóa" và "sang trọng hóa".

    Chọn vải may áo dài (Làng nghề Trạch Xá).                        Ảnh: HN


Trước hết người Hà Nội là kết quả của tinh hoa bốn phương tụ hội, đua trí, đua tài, học hỏi và nâng cao: "Khéo léo tay nghề, đất lề Kẻ Chợ". Khi người ta lao động giỏi ở một trung tâm giao dịch, một trung tâm "mở cửa", đón gió muôn phương thì nảy sinh nhu cầu lựa chọn, đòi hỏi và có điều kiện thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng từ các nơi đổ về. "Gắng công kén hộ Cốm Vòng/ Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui". Hình thành một mạng lưới làng quê sản xuất đặc sản nông phẩm và sản phẩm thủ công ven đê cùng với phố phường thủ công nội đô, giao lưu với nhau ở bốn chợ chính trước bốn cổng thành đông, Tây, Nam, Bắc "Bán mít chợ đông/ bán hồng chợ Tây/ bán mây chợ Huyện/ bán quyến (lụa) Hàng Đào" và một mạng lưới ven đô ở các cửa ô: Bưởi, Cầu Giấy, chợ Dừa, cầu Dền, Đống Đa… Vì thế mà có "Ổi Quảng Bá, cá Hồ Tây", "Giò Chèm, nem Vẽ", "Cốm Vòng, gạo Tám Mễ Trì, tương Bần, húng Láng còn gì ngon hơn", "Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng"…

Từ đó, người Hà Nội trở nên sành ăn, sành mặc, đánh giặc giỏi, đại diện anh hùng của cả

    Cốm vòng mùa Thu Hà Nội.                Ảnh: DT

nước, làm ăn tài, đại diện của tinh hoa dân tộc; người Thăng Long – Hà Nội nhờ truyền thống hiếu học, nhờ có điều kiện giao lưu văn hóa xã hội, thu nhận nhanh nhiều liều lượng thông tin khác nhau, trở nên đặc biệt mẫn cảm về chính trị – tình cảm.

Với một nếp sống phong lưu về vật chất, phong phú về tinh thần lịch sử ngàn năm văn vật của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội đã hun đúc cho người Hà Nội một nếp sống thanh lịch, từng trải mà nhẹ nhàng, kiên định mà duyên dáng, hào hoa mà thanh thoát, sang trọng mà không xa hoa, cởi mở mà không lố bịch, nhố nhăng… từ lời ăn tiếng nói đến phong cách làm ăn, suy nghĩ… "Chẳng thanh cũng thể hoa nhài/ Dẫu không lịch sự cũng người Thượng kinh". Thành phố Rồng Bay có trường cao cấp về Văn (Quốc Tử Giám), về Võ (Giảng Võ đường) từ thế kỉ XI cho đến Thăng Long vừa thượng võ với Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Toản, vừa văn hiến với Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Chiêu Hổ, Bà huyện Thanh Quan…

Văn hóa Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội là một hằng số tuyệt vời của văn hóa Việt Nam.

Biết xưa để vì nay. Chúng ta quyết xây dựng Hà Nội hôm nay trở thành một trung tâm văn hóa, khoa học cao, tiêu biểu cho cả nước, với những con người Hà Nội mới, rất Việt Nam.