Mặc dù nay Thầy đã về Cực Lạc mà hình ảnh đó con vẫn còn nhớ như in, ngày 6 tháng 11 năm Bính Thìn (12-1976) khi đất nước vừa hòa bình, Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam tổ chức mở trường Tu học Phật pháp Trung ương, chuẩn bị khai giảng khóa học 6 năm cho Tăng Ni sinh miền Bắc (có 18 người), hôm đó trời rét, với chiếc va ly hành lý từ xích lô vào cổng chùa Quán Sứ, con ngỡ ngàng không khác gì chim chích vào rừng không biết đi vào đâu và sẽ gặp được ai. Thì từ phía sau chính điện một vị Thượng tọa uy nghiêm đĩnh đạc mặc chiếc áo bông màu nâu, miệng nhai trầu tay xách nước tưới cây cảnh. Hình ảnh đó đã khiến con luống cuống chắp tay thi lễ và xin được đại lao Ngài tưới cây. Ngài hỏi tôi: “Thầy có khỏe không, pháp danh gì, ở chùa nào? Đệ tử Hòa thượng nào?”. Tôi ấp úng đáp: “Kính bạch Thượng tọa, con mới thụ Sa di thôi”. Ngài nói: “Từ bây giờ Sư bác, nay mai sẽ là Thượng tọa”. Khi biết tôi từ chùa Dư Hàng, TP Hải Phòng đến, là đệ tử của Hòa thượng Dư Hàng, Hòa thượng kể lịch sử chùa Quán Sứ và công đức xây dựng chùa là do Hòa thượng Tố Liên và Hòa thượng Trí Hải, và nhắc nhở, bây giờ nhà nước giúp đỡ mở trường, các sư còn trẻ cố gắng mà tu cho thành đức, học cho thành tài, nay mai làm lương đống cho Phật pháp. Chúng tôi ngày xưa đi tản cư tìm thầy học được một câu đạo pháp khó khăn vất vả lắm. Cơm cũng thiếu thốn, đi bộ mấy ngày đường mới tới Đức La lễ Tổ mà xin học. Thầy đi đâu phải theo đó mà học”. Những ấn tượng đầu tiên gần gũi thân thương của Hòa thượng với lời chỉ dạy ân cần đó đã động viên khích lệ cho việc tu học sau này của tôi.
Với hơn chín năm được thân thừa quý Hòa thượng tại Tùng Lâm Quán Sứ, kỷ niệm sâu sắc thứ hai của tôi là khi thụ giới, trong khi Hòa thượng Viên Tu luôn nhắc “Bí mật nhé, không hỏng đấy” thì Thầy lại động viên: “Phúc đức quý hóa quá, các bác là người đầu tiên được Trung ương Hội đứng ra tổ chức thụ giới cho đấy. Cố mà tu học nhé!”. Thật vậy, trong lớp có 4 anh em (Quảng Tùng, Thanh Dương, Thanh Phương, Thanh Điện) là Sa di nên Hòa thượng Thích Trí Độ bàn với Hòa thượng Thích Tâm An, Hiệu trưởng kết hợp với ông Cao Tất Đạt cán bộ Ban tôn giáo của Chính phủ lo các thủ tục thụ giới vào ngày 9-7 năm Mậu Ngọ – 1978. Và sau đó việc thống nhất Phật giáo được thực hiện năm 1981. Đúng là “vô tiền khoáng hậu”. Để chuẩn bị thụ giới, mấy tối liền Thầy đã làm chủ lễ hành sám cho các giới tử lễ theo để thân tâm thanh tịnh đón nhận giới châu tuệ mệnh được viên thành. Thầy lại động viên: “Phải phát tâm Đại thừa thụ giới Bồ tát mới là Phật tử, mới là pháp khí Như Lai, làm việc Đạo mới thuận lợi. Giới Bồ tát mới theo mình đời đời kiếp kiếp tới khi thành Phật, lợi lạc nhiều lắm. Tôi thấy Bác thụ được đấy, phát tâm đi”. Tôi nghe lời Thầy chỉ dạy vừa mừng vừa lo. Mừng vì Thầy hứa khả cho thụ giới Đại thừa. Lo vì huynh đệ chưa ai thụ giới, giới luật lại cao thâm không biết hành trì thế nào. May quá, Thầy dạy trong đàn đó lại có đại đức Thanh Hưng và Bảo Nghiêm và mấy vị Ni nữa thụ cùng. Thế là Thầy đồng ý cho thụ giới, ban cho pháp hiệu là Kiên Đức và được Thày truyền giới vào ngày 10-7 ngay sau hôm thụ giới Tỳ kheo. Những pháp âm, giới tướng của Tỳ kheo mà cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm Thầy yết ma bố thí hôm qua còn vang vọng trong tâm khảm, làm kim chỉ nam cho lộ trình tiến tu đạo nghiệp của một Thanh văn, thì hôm nay lại được nghe những lời giáo huấn ân cần của Thầy về bổn phận trách nhiệm của một vị Bồ tát trong việc thực hành Tam Tụ Tịnh giới qua 10 giới trọng 48 giới khinh. Với giọng ấm áp vang vang, Thầy giảng thêm: “Giới hạnh trang nghiêm trời đất kính, Bồ đề vững chắc quỷ thần kinh”. Đấy là những dẫn chứng sâu sắc, nhằm sách tiến cho đệ tử gắng sức tu học.
Kỷ niệm thứ ba. Mỗi dịp lễ Phật đản bao giờ cũng được làm thị giả Thầy lên chùa hành lễ trì chú tắm Phật. Năm đầu tiên vào tối 7-4, Thầy dạy: “Sáng mai bác lên chùa làm lễ tắm Phật với tôi nhé”. Vì chưa từng làm bao giờ nên tôi đã bạch Hòa thượng: “Con chưa biết làm thế nào ạ!”. Thầy nói: “Chưa biết rồi khắc biết, về mang sách bút sang đây”. Cung kính bất như tòng mệnh, tôi về lấy quyển vở sang; Thầy ân cần dạy bảo nghi thức tắm Phật trong đại lễ Phật đản từ câu (lễ nhất thiết cung kính, tới việc trì chú, tắm Phật thế nào, và đọc bài kệ tán Phật đến Tam tự quy). Viết xong, thấy tivi diễn vở Ni cô Đàm Vân hay quá, tôi muốn ngồi lại xem, Thầy dạy: “Thôi về phòng tranh thủ học, hôm nào Chủ nhật nghỉ học mới được xem, mai không thuộc bài Thầy giáo mắng đấy “Ấu nhi học trưởng nhi hành, tương lai Phật pháp trong vai các con đấy, cố mà học đi”. Vâng lời Thày, tôi đã lẳng lặng về phòng ngồi học và cứ Chủ nhật mới được xem phim.
Hàng năm vào ngày 15-2, ngày Đức Phật nhập Niết bàn, Thầy đích thân tụng giới bản. Năm 1983 nhân khi mua được chiếc đài mới, tôi đã thu giọng tụng giới của Thầy về để học. Giọng Thầy tụng giới trang nghiêm mạch lạc tưởng như Đức Thế Tôn thị hiện chế giới. Tôi thấy đời tôi thế là quý nhất rồi, như thể độc đắc, hiếm ai có được.
Thầy ơi! Gần một năm trôi qua Thầy vắng bóng, không còn làm Phật sự tại Sa Bà nữa. Nhưng uy đức, pháp âm vi diệu của Thầy vẫn vang vọng trong hàng triệu trái tim của các đệ tử. Trong đó con là một trong những người được diễm phúc thân thừa ân triêm công đức của Thầy bằng thân giáo, khẩu giáo rất nhiều không thể giấy bút nào tả cho hết được. Thầy là bậc Thầy giáo thọ trong đàn Tỳ kheo. Bậc Thầy đã truyền cho giới Bồ tát làm hành trang trên đường tu học của con. Giờ đây Thầy ở Tây phương, con tại Sa bà, chỉ biết nguyện cầu Thầy trường sinh nơi Phật quốc tái hiện Đàm Hoa để tiếp dẫn chúng sinh. Con mãi mãi ghi nhớ những lời Thầy dạy bảo ân cần, tinh tiến tu tập để không phụ công ơn giáo dưỡng và tiếp dẫn hậu côn, nhằm báo đền công ơn to lớn của Thầy.
Ngưỡng mong Giác linh Thầy chứng giám.
Khể thủ khấp bái








