Trang chủ Tin tức Tìm hiểu nỗi oan của Thái sư Lê Văn Thịnh qua lăng...

Tìm hiểu nỗi oan của Thái sư Lê Văn Thịnh qua lăng kính tính không trong Trung Quán Luận (P2)

2.2.         Thực tướng Tính Không  về nỗi oan Lê Văn Thịnh theo TQL.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư ra đời vào thời Hậu Lê, kể lại vụ án như sau: “Mùa xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang . Bấy giờ vua( Lý Nhân Tông) ra hồ Dâm Đàm, ngự thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mây mù có nghe  tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: Việc nguy rồi!”. Người đánh cá là Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra lại là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Trước đấy, Lê Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch[26]. Qua đoạn trích trên ta thấy thực hư, hư thực lẫn lộn, lại nhớ tới cuộc đời Long Thọ, xưa ở Ấn Độ thông minh, học giỏi tinh thông pháp thuật, nhân một hôm cùng bạn vào cung vua gẹo các mỹ nữ bị vua cho quân lính truy đuổi chém chết người bạn, còn Long Thọ có phép thuật tàng hình ẩn trên mũ của vua thoát chết. Long Thọ thấy cuộc đời thật mong manh, từ đó đã chuyên tu theo Phật, học ngộ giáo lý Đại thừa, thông ngộ quán Tính Không.

Theo lập trường Tính Không của Long Thọ thì chỉ ra rằng nếu không chấp, nhìn nhận các sự vật và hiện tượng trạng thái của chúng như thực chúng vốn có, thực chúng vốn là Tính Không. Vấn đề khổ đau được chia ra nhiều kiểu khác nhau, nhưng thực các khổ đau đó không phải do ta tạo, cũng không phải do người khác tạo ra nên Long Thọ viết: “ Không thể bảo rằng khổ đau là tự tạo, vì lẽ pháp chính nó cũng không thể tự tạo, như thế khổ đau vốn không có tự tính, thì không thể tạo mọi sự khổ đau[27]. Nhờ vào phép quán lý Tính Không về sự vật và hiện tượng theo lý duyên sinh vô ngã, nên các sự vật hiện tượng, buồn vui, khổ đau, an vui tạm thời, oan, không oan thực chất cũng chỉ quy về một chữ “Không”. Không đây là không oan vô tự tính. Ta quán chiếu rõ sự ràng buộc của các sự vật hiện tượng là không, ta không  cố chấp “ ta – người hay bỉ – thử”, sống theo luật nhân quả, ta luôn làm việc  lành lánh việc dữ sẽ thoát ra phiền não, khổ đau, nỗi oan, có bình an hạnh phúc.
 
 


 

Hình ảnh Hồ Dâm Đàm xưa nay là Hồ Tây – Hà Nội
 

Thực ra vụ án trên lâu nay đã được nhiều nhà khoa học, sử học bàn tới, có ý kiến cho rằng, ông là nạn nhân của sự xung đột giữa một bên là ý thức hệ Phật giáo, mà đại diện Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông, và một bên là ý thức hệ Nho giáo mà đại diện là Thái Sư Lê Văn Thịnh. Bên cạnh đó cũng có một số lập luận của các nhà khoa học cho rằng, khi ông được phong chức Tả thị lang, khi đã có công, cải cách triều đình. Theo sử sách ghi lại, dưới thời vua Lý Nhân Tông đã có nhiều cải cách mới, cụ thể:

–         Năm 1086, tổ chức thi tuyển người vào Hàn Lâm Viện.
–         Năm 1088, định các chùa trong nước làm ba hạng
–         Năm 1089, định các chức văn võ, quan hầu vua, các chức tạp lưu.
–         Năm 1092, định sổ thuộc thu tô ( thuế).

Hay là, theo Tích Tổ Khai khoa của Nguyễn Đức Khách luận thơ về Thái sư Lê Văn Thịnh như:
“ Chín năm tuy cũng chưa nhiều.
Soạn ra “chín luật” kịp điều chăn dân.
Chùa chiền định dạng “Danh lam”
Mở trường thi võ thi văn kén tài
Thu thuế ruộng đất xung vào quân lương…
Còn thừa phải bỏ ruộng ra
“ Công điền” “ công thổ” điều hòa cho cho dân…”[28]
Tất nhiên, những quyết sách lớn trên là do nhà vua quyết định, nhưng có lẽ vị quân sư ở đây không ai khác là Lê Văn Thịnh. Chính sự cải cách này đã ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi của các vị quan lại, vương thần, quốc thích.v.v.

Nhưng giả định, giết vua cướp ngôi là có thật thì tại sao Lê Văn Thịnh chỉ bị đi đày mà không bị xử tử:
Miễn cho án xử luật hình

Lưu đày biệt xứ núi rừng Thao Giang[29]
 Trong khi đó các vụ việc tương tự diễn ra trước và trong cùng triều đại Lý đều chịu kết cục xử tội chết?. Vậy sự thật của vụ án này như thế nào? Và ai là nhân vật đứng đằng sau vụ án? Vẫn là một câu hỏi nan giải đối với hậu thế.  Nhưng có lẽ, vấn đề ông bị oan hay không bị oan cũng chỉ là vấn đề thứ yếu, theo Long Thọ thì oan, khổ đau cũng chỉ là vô ngã Tính Không, còn việc đáng tôn vinh ghi nhận công lao phò vua giúp nước thì không ai có thể chối cãi được. Công lao này còn được lưu giữ bằng  đôi câu đối viết về ông tại đền thờ Lê Văn Thịnh:

Bắc
Triều
Phục
Sứ
Vô 
Song
Nam
Quốc 
Khai
Khoa
Đệ 
Nhất
Nhân

 
Ông Nguyễn Xuân Đoàn, Ủy viên BTV, trưởng BTG huyện ủy, Gia Bình cũng có bài viết nhận định về Thái sư Lê Văn Thịnh như: “Trạng nguyên khai khoa, Thái sư Lê Văn Thịnh công lao to lớn với vương triều Lý và Quốc gia Đại Việt[30]. Người xưa từng nói, có sinh thì phải có tử, Phật Long Thọ đồng tính với luật duyên sinh vô ngã, tức cuộc đời vô thường, con người là mộng ảo: “ Tất cả đều ảo hóa, và mộng mị như trong giấc chiêm bao, như sự giả hiện của Thành Càn Thát Bà, nói có cái này cái kia, rồi chấp có sinh, trụ diệt. Tất cả đều mộng ảo như thế”, con người thực chất là nhân duyên hòa hợp từ: tình cha huyết mẹ, cơm áo, gạo, tiền…tình yêu thương dạy giỗ, chăm tu phúc lánh lành…mới ra con người, nhưng thực chất con người thực thể lại là mộng ảo, mây bay, là giả danh, cái thân huyễn hóa của ông Lê cũng như bao con người khác không chết ở nhà thì lại chết ở tha phương ( Đình Tổ – Thuận Thành – Bắc Ninh), ấy chỉ sự vô thường về cái chết không cố định một nơi. Biết đời có sinh – tử ( diễn giải rộng hơn theo kiểu Long Thọ đời người có: Sinh – trụ – diệt), biết thế thấy đời mong manh, nên cần lạc quan không cố chấp vào sinh tử cố định sống an vui tự tại.

Trong lúc hơi tàn sức kiệt, ông đã trút hơi thở cuối cùng tại Đình Tổ (Thuận Thành, Bắc Ninh). Người dân Đình Tổ cảm cái công lao to lớn của ông với nước với dân nên đã chôn cất thi hài ông và tôn ông làm Thành hoàng làng.
 

 

Lăng mộ Lê Văn Thịnh tại Đình Tổ, Thuận Thành, Bắc Ninh
 

2.3.         Thực tướng Không của Lê Văn Thịnh với tượng rồng đá
Theo cụ Nguyễn Văn Tuynh – một trong những người thường xuyên hương khói, coi sóc ngôi đền và chùa Bảo Tháp nói về nguồn gốc xuất thân của bức tượng rồng được tìm thấy vào năm 1993, trong quá trình tu sửa đường vào chùa Bảo Tháp:

 “Khi cụ rồng được đưa lên mặt đất, nhiều người trợn tròn mắt kinh ngạc. Bức tượng nặng hơn 1 tấn, cao khoảng 0,9m, dài rộng mỗi chiều 1m, có tư thế rất kỳ bí. Từ bức tượng toát lên nỗi oan khuất ngút trời, sự đau đớn, vò xé, căm hận. Uy lực toát ra từ bức tượng mạnh đến nỗi, tất cả những người dân có mặt đều quỳ xuống lạy”, cụ Tuynh nói. Sau đó cụ rồng được đưa vào đền, nơi xưa kia là nền nhà cũ của Thái sư để thờ cúng.[31]
 
 


 

Hình ảnh tượng rồng đá khai quật dưới nền cổng chùa Thiên Thư
 

Bàn về tượng rồng đá được tìm thấy có nhiều ý kiến trái chiều nhau: Có ý kiến cho rằng, bức tượng đã lột tả được tâm trạng oan khuất của Lê Văn Thịnh nhưng lại có ý kiến khác cho rằng, rồng là một vị thần trong tám vị thần vô tướng, nhưng nhìn tận mắt thấy “miệng cắn thân chân xé mình,một bên tai lành một bên tai điếc” đã có nhiều câu hỏi được đặt ra. Nhưng rõ ràng cái uy lực của bức tượng rồng tạo ra một triết lý rằng; Con rồng  là một thực thể chúng sinh, cái nét miệng cắn thân, chân xé mình, đã chỉ ra một triết lý trong Phật giáo, nếu ta gieo nhân gì thì ắt sẽ gặp quả ấy. Phải chăng pho tượng rồng ấy lại nhắc nhở mỗi chúng ta sống trong cộng đồng, dù là tập thể hay cá nhân, sự đoàn kết được hay không cũng là phần chính do nội bộ làm nên. Trong giáo lý nhà Phật có câu, kẻ thù lớn nhất của cuộc đời là chính mình, cuộc đời của mỗi con người an vui hay đau khổ cũng do ta. Nếu ai dù chỉ một lần được nhìn thấy tượng rồng đều cảm nhận thấy vẻ đẹp tinh tế đầy ẩn ý về nghệ thuật và đồng thời là một bức thông điệp sâu sắc về nội dung phản ánh nhắc nhở mỗi thân tâm chúng ta khi tồn tại trên cõi đời này.

Theo Phật giáo Rồng là một trong tám vị thần không tướng, các vị thần đó cũng được coi là chúng sinh, cũng có sinh có tử, nhưng thực tướng của rồng là vô tướng. Bên cạnh đó lại có ý kiến khác cho rằng, pho tượng rồng đó ám chỉ Thái sư Lê Văn Thịnh có trí tuệ hơn người, có công rất lớn nhưng cũng chỉ như một con rồng, nếu một khi có ý tưởng phản nghịch giết vua cướp ngôi. Nhưng có lẽ là một con người tài ba, thông minh, cao thượng, một vị thái sư dạy vua chắc không thể phản nghịch giết vua. Qua vấn đề tượng rồng này, ta thấy hình ảnh tượng rồng không những liên quan tới nỗi oan của Thái sư Lê Văn Thịnh nói riêng mà còn làm xao động tới tâm tư suy nghĩ của muôn người. Nhưng để thoát ra khỏi sự đối đãi, tác giả tác phẩm khi nghiên cứu, luận bàn về vấn đề chứa nhiều uổn khúc này, chúng ta không thể bỏ qua cách quán tưởng lý Tính Không, tức sự vật hiện tượng duyên giả mà thành, thực tướng là không. Chỉ có thể liên tưởng quán như thế ta mới có thể thấy tâm ý rỗng rang, không còn kẹt chấp vào “ đây – kia” mới có thể giác ngộ, giải thoát. Nên Long Thọ viết: “Như trên, tác giả và tác nghiệp đều bị đả phá, thọ, thọ giả cũng như vật; đối với tất cả pháp nên quán như thế để loại trừ kiến chấp[32].

Cái vô thường chi phối các pháp (sự vật và hiện tượng), nên đức Phật mượn tướng trạng vô thường trống không của những bọt nước trôi dạt trên sông Hằng để nói lên bản chất của các pháp cũng như thế, tất cả đều bị vô thường rồi cũng sẽ trống không như bọt nước. Bản chất của các pháp là như vậy, nếu con người không thấy rõ không chấp nhận chúng, ngược lại sinh ra thái độ cố chấp, ắt hẳn phát sinh đau khổ.

Tư tưởng “Không” hay “Tính Không” cũng là tư tưởng căn bản của Phật-giáo, tư tưởng này quả khó chứng nghiệm, do cảnh giới của thực tướng liễu ngộ. Tính Không nhờ vào sự hội đắc của chính mình chứ không thể nương vào ai khác, lại cũng không thể nương vào văn tự ngữ nghĩa biểu hiện để lý giải. Tư tưởng “chân không diệu hữu” của Kinh Bát Nhã chính là cốt lõi cơ bản của tư tưởng Đại thừa Phật giáo, mà Trung Quán Luận của Long Thọ đã kế thừa phát triển.

Theo phẩm Quán Điên đảo thứ 23 của Trung Quán Luận, Thích Quảng Liên dịch và giải thích, Nxb Tôn Giáo, 2007 trang 226 ghi rằng: “Do ý nghĩ suy tưởng phân biệt, Nên phát sinh hiện tham, sân, si. Tịnh và bất tịnh các điên đảo. Tất cả đều các duyên sinh ra”.

Kết Luận
Phật giáo xuất hiện ở đời đã hơn 2000 năm lịch sử, Long Thọ Bồ Tát ra đời cách đây đã hơn XV-XVI  thế kỷ nhưng tư tưởng Tính Không trong Trung Quán Luận vẫn là phương pháp luận cho các vấn đề cuộc sống xã hội con người ngày nay, trong đó Thái sư Lê Văn Thịnh là một điển hình. Tư tưởng Tính Không giúp cho con người khai tâm, khai trí nhìn thấu cuộc đời, mọi vạn vật hiện tượng đều là nhân duyên hòa hợp mà thành mà tán, thực chất con người, tham, sân, si, giận hờn, oan, không oan, phúc họa…đều không có tự tướng cố định, thực chất của các vấn đề đó là vô ngã. Hiểu được các vấn đều đều do nhân duyên giả  hợp mà thành mà tán, bản chất là vô ngã như thế, nên mỗi chúng ta cần phải phản quan tự kỷ xem xét thân tâm ta, quán chiếu cảnh quanh ta thấy được bản chất là vô thường, không có cố định, thấy được như vậy ta không chấp kẹt vào các vấn đề sự vật hiện tượng vô thường nên ta tự tại, an vui giải thoát trong mọi lúc mọi nơi.

Theo giáo lý tư tưởng Tính Không của Long Thọ thuyết trong Trung Quán Luận như thế, do vậy ta hiển nhiên thấy con người nói chung cũng như Thái Sư Lê Văn Thịnh đều nằm trong quy luật vô thường, cũng được sinh ra và lớn lên theo  “ sinh, già, bệnh, chết”, cái quy luật vô thường chi phối, cái nhân duyên hòa hợp mà thành. Một con người Thái sư Lê Văn Thịnh và cũng như bao con người khác đã góp thêm duyên vào cho cuộc đời này xã hội này thêm sức sống, niềm tin yêu khác nhau, sự phấn đấu học hành, tinh thần yêu nước chiến đấu bảo vệ tổ quốc, phò vua giúp nước và còn nhiều nhiều công việc lợi ích nữa chỉ có thể mượn không gian làm giấy, lấy nước biển làm mực mới có thể viết thành công ơn của những con người Việt chúng ta. Bên cạnh những dấu ấn lịch sử lưu đọng trong bao con tim thế hệ, Thái sư Lê Văn Thịnh còn để lại những cái khó hiểu như Vụ “oan hóa hổ giết vua” ở Hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây ngày nay) là một vấn đề khó giải thích theo thế gian. Nhưng theo tư tưởng Tính Không của Long Thọ, trường hợp vụ oan hay không oan hóa hổ giết vua của Lê Văn Thịnh, việc ấy cũng chỉ là nhân duyên hòa hợp mà thành, thực tướng việc ấy là vô tướng, không cố định.

Thế nên có lẽ mỗi chúng ta khi nghiên cứu về Lê Văn Thịnh ta cũng cần phải quán chiếu cuộc đời hành trạng của Thái sư Lê Văn Thịnh theo lý duyên khởi, Tính Không của Phật giáo của Long Thọ mới có thể hóa giải được việc ta tạo nghiệp đời trước nên đời này ta phải gánh chịu hậu quả. Để tạm kết cho vấn đề nghiên cứu vài nét về “ Tìm hiểu nỗi oan của Lê Văn Thịnh qua lăng kính Tính Không của Trung Quán Luận” ta có thể mượn mấy lời nguyên văn của Long Thọ viết về con người “ Không nhân mà có sắc, Việc ấy trọn không đúng, thế nên người có trí, không nên phân biệt sắc” sắc đây là sự vật hiện tượng, không nên chấp vào phân biệt sắc. sự việc như “ Thọ ấm và tưởng ấn, cùng hành ấm thức ấm. Ngoài ra tất cả pháp. Đều đồng với sắc ấm[33]. Đây chính là những câu đầy ý nghĩa triết lý Tính Không diễn tả con người, sự vật hiện tượng buồn vui, oan, của cuộc đời đều không thật có, tức vô ngã. Thấy được sự vật hiện tượng vốn vô tướng, vô thường, Tính Không như thế ta sẽ quán chiếu như thực quán, thoát ra khỏi tư duy chấp nhị biên, chấp nhất biên, chấp bỉ thử, nên sẽ gặt hái được kết quả  giác ngộ, ứng dụng sự giác ngộ vào cuộc sống, sống được tự tại, giải thoát trong cuộc sống này.
 

 

Hình bông hoa sen Tinh khiết không thể hiện vạn pháp không

Tài liệu tham khảo:
1.     Thích Thanh Từ dịch giảng (2008), Trung Luận giảng giải, Nxb Tôn giáo
2.     Thích Thiện Siêu dịch (2001), Trung Luận,. Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
3.     Ngọc Phả Đức Thái Sư Đại Vương ( Trạng Nguyên Lê Văn Thịnh), Đây là Ngọc phả của Thái sư được giữ lại ở Đền Lê Văn Thịnh ngày nay
4.     http://vi.wikipedia.org/ Le Van Thinh
5.     Nguyễn Độ, Thái sư Lê Văn Thịnh có “hóa hổ giết vua“, https://giacngo.vn/
6.     Giáo Hội Phật giáo Việt Nam (2014), Kỷ yếu Phật tử búp sen vàng truyền thống, Nxb Tôn giáo.
7.     Thích Tâm Thiện (1999), Lịch sử và tư tưởng triết học Tánh Không, Nxb. TP HCM, tr. 152.
8.     Nguyễn Đức Khách (2010), Tích Tổ Khai Khoa, Nxb. Văn hóa thông tin Hà Nội, tr. 66 – 67.
9.     Ngô Sỹ Liên (1983), Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 1, Nxb. KHXH, tr. 297.
10.                         Khuyết danh (1993), 

Bài trướcTìm hiểu nỗi oan của Thái sư Lê Văn Thịnh qua lăng kính tính không trong Trung Quán Luận
Bài tiếp theoClb Hương Từ Tâm Đà Nẵng tặng quà cho đồng bào miền núi Tây Giang tỉnh Quảng Nam