Tư tưởng Tịnh độ trong Phật giáo nguyên thủy

    Tịnh độ tông là bản hoài độ sinh của Đức Phật, song xét về căn cơ thời giáo tương ứng, Tịnh độ tông ở Ấn Độ cũng trong quá trình hình thành và phát triển từ ẩn đến hiện, từ thứ yếu trở thành chủ yếu.


    Tịnh độ tông ở Ấn Độ xưa được truyền bá phụ thuộc vào các bậc Bồ Tát đại sĩ khởi xướng và dùng lý luận để xiên dương phát triển. Rồi Tịnh độ tông được truyền đến Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản… cũng có lịch sử lâu dài và in sâu vào trong đời sống xã hội.


    Ở đây nghiên cứu bối cảnh lịch sử hoàn thành và phát triển của Tịnh độ tông nhằm minh định Pháp môn niệm Phật – Tịnh độ là do kim khẩu của đức Thích Ca Mâu Ni tương thuyết, cũng là lòng từ thương xót cứu độ chúng sinh của chư Phật mười phương được gửi gắm ở trong đó.


    Phật giáo nguyên thủy là chỉ cho ngôn hạnh của đức Thích Ca khi còn tại thế, cũng như ngôn hạnh của các Thánh đệ tử được Ngài tự thân xác nhận, mà đại biểu là hệ thống kinh A Hàm và Luật tạng.


    Từ giáo nghĩa của Phật giáo nguyên thủy để xem xét, so với tư tưởng Phật giáo Đại thừa của pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ tông dường như có nhiều sai biệt. Đức Thế Tôn tùy theo căn cơ của chúng sinh mà thuyết pháp độ sinh, có khi xiên dương các pháp môn khác nhau, song giáo lý đều là nhất vị và dung nhiếp hỗ trợ lẫn nhau.


    I. Xu hướng của Phật giáo Tiểu thừa


    Phật giáo tiểu thừa hay Thượng tọa bộ, hay Phật giáo Nam truyền. Giáo lý căn bản là Tứ đế, Thập nhị nhân duyên… trên cơ sở của Tam pháp ấn – Vô thường, vô ngã, Niết Bàn tịch tĩnh.


    Phật giáo nguyên thủy thuần là pháp xuất thế, khác hắn với nhân thiên thế gian pháp, Tiểu thừa giáo lấy liễu sinh thoát tử làm nhân, lấy lìa tham ái làm căn bản, lấy tịch diệt làm cứu kính.


    Tứ đế là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo


    Khổ đế: Đau khổ là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Đây là một chân lý, một sự thật về bản chất cái khổ.


    Đức Phật dạy: “Này các Tỷ khiêu, sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ, oán ghét mà sống cùng nhau là khổ. Tóm lại chấp thủ năm uẩn là khổ”.


    Tập đế: Là sự tích tập hội tụ các phiền não tạo thành năng lực đưa đến đau khổ. Đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Nguyên nhân của khổ được các kinh đề cập đến chính là do tham ái, do tham ái mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà chiêu cảm quả khổ. Nguyên nhân sâu xa và căn bản chính là Vô minh


    Diệt đế: Là sự chấm dứt, sự dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và chấm dứt đau khổ, cũng có nghĩa là hạnh phúc an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết Bàn.


    Đạo đế: Là con đường, là phương pháp thực hiện diệt khổ để đạt đến Niết Bàn. Về nghĩa hẹp là chỉ cho Bát chính đạo; nghĩa rộng là chỉ cho 37 phẩm trợ đạo.


    Nội dung của 37 phẩm trợ đạo bao quát: Tứ niệm xứ Tứ chính cần, Tứ như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bẩy giác chi và Bát chính đạo.


    Từ nguyên tắc cơ bản của pháp Tiểu thừa ta thấy: Liễu sinh tử khổ là Tứ niệm xứ, Lìa tham ái trì giới sinh định tức Tứ chính cần, Tứ như ý túc; Do định khai phát trí tuệ vô lậu tức Năm căn, Năm lực, Bẩy giác chi, Từ trí tuệ vô lậu tu giới định tuệ viên mãn tức Bát chính đạo.


    Mười hai nhân duyên là giải thích nguồn gốc và trạng thái luân chuyển của nhân sinh vũ trụ: Vô minh duyên hành; Hành duyên thức; Thức duyên danh sắc; Danh sắc duyên lục nhập; Lục nhập duyên xúc; Xúc duyên thụ, Thụ duyên ái; ái duyên thủ; Thủ duyên hữu; Hữu duyên sinh; Sinh duyên lão tử.


    Mười hai nhân duyên hình thành móc xích liên hoàn giữa Hoặc, Nghiệp, Khổ. Do từ vô thủy vô minh mê hoặc phát động nên tạo tác các nghiệp thiện ác từ nhiều đời quá khứ. Do các nghiệp thiện ác từ đời quá khứ dẫn dắt nên chiêu cảm quả khổ của đời hiện tại.


    Lại do đời hiện tại tiếp tục vì mê hoặc mà tạo tác các nghiệp, do đó phải chiêu cảm quả sinh tử khổ ở kiếp mai sau. Đó chính là mắt xích liên tục vận hành của 12 nhân duyên tạo ra sinh tử luân hồi.


    Mười hai nhân duyên và Tứ Thánh đế có mối quan hệ nội tại: 12 nhân duyên lưu chuyển theo chiều thuận, đó tức là Tập đế, Khổ đế, 12 nhân duyên hoàn diệt đó tức là Đạo đế, Diệt đế.


    Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông) bao gồm Thanh văn thừa và Duyên giác thừa. Nhờ nghe âm thanh Phật thuyết pháp mà tu hành chứng quả gọi là Thanh văn.


    Dựa vào giáo lý 12 nhân duyên tự nỗ lực quán chiếu tu chứng gọi là Duyên giác.


    Thanh văn tuy đã được giải thoát sinh tử phiền não, nhưng chưa đạt đến đại bi, đại trí, đại hạnh cho nên đối với Đại thừa mà gọi là Tiểu thừa.


    Phật giáo Nguyên thủy hoàn toàn lấy việc thoát ly sinh tử luân hồi làm mục tiêu hướng đến. Còn đối với người có thiện căn nhưng chưa đủ duyên để xuất ly sinh tử thì đem thiện pháp cõi trời, cõi người để dần giáo hóa họ, một mặt khiến cho những chúng sinh tu tập phúc báo nhân thiên mà không đoạ ác đạo; mặt khác khiến cho người có thiện căn phúc đức sâu dày hồi tâm hướng Phật tạo nên cái nhân xuất thế sau này.


    Từ giáo lý của Phật giáo Nguyên thủy và thực tiễn tu hành của chúng Thanh văn có thể khái lược 3 đặc điểm căn bản sau đây:


    1. Tiểu thừa Phật giáo coi trọng tự lực tu chứng, nỗ lực bằng chính khả năng của mình mà đoạn hoặc chứng chân, không tin vào sự cứu giúp của tha lực, phủ nhận quyền uy, phế bỏ sự sùng bái ngẫu tượng.


    Trong kinh Đức Phật dạy: “hãy nên nương tựa vào chính mình, hãy nương tựa vào chính pháp, chớ nên nương tựa vào ai khác…”.


    Đức Phật tùy cơ thuyết pháp nhằm khiến cho các đệ tử trở về với tự tính không hướng ngoại tìm cầu, cho nên ít nói đến tha lực, quét sạch quyền uy. Từ đó có thể thấy đó là căn cơ của hành giả Tiểu thừa.


    2. Hành giả Tiểu thừa chứng quả A La Hán, đắc Hữu dư y Niết Bàn (thiên châm Niết Bàn) đoạn kiến tư hoặc, song vẫn còn trần sa hoặc và vô minh hoặc chưa đoạn trừ.


    Tuy đã ra khỏi phân đoạn sinh tử trong ba cõi mà vẫn còn biến dịch sinh tử. Đứng trên quan điểm của Đại thừa Vô lượng thần thông diệu dụng, quảng độ chúng sinh, đức Thế Tôn từng trách mắng Thanh văn tiểu thừa là “Tiêu nha bại chủng”.


    Trong hội Pháp Hoa có đến 5.000 chúng Thanh văn thoái lui. Điều đó chứng tỏ A La Hán nếu chẳng phát tâm xu hướng vào Đại thừa thì chẳng thể viên thành Phật quả Bồ đề.


    3. Trong pháp Tiểu thừa không trình bày rõ giáo nghĩa thâm áo chẳng thể nghĩ bàn của Đại thừa. Hành giả Tiểu thừa chỉ tin có Đức Phật Thích Ca ở cõi này mà không có vô lượng chư Phật ở mười phương trời, chỉ tin có Tịnh độ của Phật Di Lặc mà chưa được nghe vô lượng Tịnh độ ở mười phương thế giới.


    Hành giả Tiểu thừa tâm lượng nhỏ hẹp, đúng như Đạt trí độ luận có nói: “Ma Ha Diễn (Đại thừa) rộng lớn. Các thừa, các đạo đều nhập vào Ma Ha Diễn; Thanh văn thừa nhỏ hẹp không tiếp nhận được Ma Ha Diễn, ví như sông Hằng không dung nạp được đại hải Vì nó nhỏ hẹp. Đại hải có thể dung nạp các dòng, vì nó rộng lớn. Ma Ha Diễn cũng lại như vậy”.


    Chứng tỏ: Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa khó có thể sản sinh pháp tạng Đại thừa, càng khó hàm nhiếp pháp môn Tính độ rộng lớn vi diệu cực viên cực đốn.


    II. Manh nha Tịnh độ tông trong kinh Bản sinh


    Kinh Bản sinh là kinh điển nằm trung gian trong quá trình phát triển từ Phật giáo Nguyên thủy đến Phật giáo Đại thừa. Bộ phận kỳ cựu của nó liên hệ đến Phật giáo Nguyên thủy, còn bộ phận tan tiến của nó liên hệ đến Phật giáo Đại thừa trong đó hàm chứa manh nha của tư tưởng Tịnh độ.


    Phật giáo Nguyên thủy coi trọng tự lực tu chứng giải thoát ngay đời hiện tại. Trên thực tế không ít người tu hành giữa đường hoặc chết hoặc thoái lui. Điều đó cho thấy, những đời kế tiếp sau này phải tiếp tục tu hành mới có thể tiến tới giải thoát hoàn toàn.


    Trong 4 quả vị của Thanh văn thì 3 quả vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm còn phải nhiều lần qua lại cõi nhân thiên để tu hành mới chúng đắc được quả vị A La Hán liễu sinh thoát tử trong ba cõi. Điều này chúng tỏ phúc đức viên mãn của Đức Phật khác biệt với phúc đức của một vị A La Hán. Do đó mà phát sinh việc tìm hiểu nhân địa tu hành của Đức Phật trong hệ thống kinh Bản sinh.


    Trong kinh Bản sinh, Bồ Tát hiện thân qua nhiều hình loại khác nhau, phát nhiều thệ nguyện, trải biết bao lao khổ để cứu chúng sinh đau khổ.


    Trong kinh Bản sinh đưa ra một thông điệp: “Bất cứ người nào nếu phát tâm Bồ đề, lập đại thệ nguyện đều có thể thành Phật”.


    Đã thành Phật cũng không hạn chế chỉ có một mình Đức Phật Thích Ca mà khắp mười phương thế giới còn có vô lượng chư Phật. Vô lượng Bồ tát ở khắp mười phương thế giới lập thứ thứ thệ nguyện mà tu tập vô số thiện căn phúc đức trí tuệ, đểu nỗ lực kiến tạo Phật quốc độ của mình để cứu độ, giáo hóa chúng sinh.


    Trong kinh Bản sinh thừa nhận có hằng hà sa số Tịnh độ của chư Phật Bồ Tát. Như trong kinh A Hàm có nói đến Bồ Tát Di Lặc là vị Bồ Tát nhất sinh bổ xứ hiện đang ở nội viện Đâu suất (Tịnh độ), tương lai sẽ hạ sinh thành Phật tại thế giới Sa Bà. Đây chính là manh nha của tư tưởng Tịnh độ và vãng sinh Tịnh độ.


    III. Sự xung đột, dung hòa giữa Phật giáo và ngoại đạo


    Khi đức Thích Ca ứng hóa tại Ấn Độ là lúc mà các học thuyết, các tôn giáo ở đó phát triển hết sức mạnh mẽ. Trong kinh điển nói có 94 phái ngoại đạo khác nhau, mà nổi bật là 6 phái ngoại đạo phát triển thịnh hành một thời. Các loại kinh sách ngoại đạo như Tứ Vệ Đà, Phạm Thư, áo nghĩa thư v.v… cũng được truyền bá khắp ấn Độ.


    Trong bối cảnh đó Phật giáo xuất hiện và phát triển, đó là quá trình tư tưởng Phật giáo với tư tưởng ngoại đạo từ xung đột đến dung hòa, rồi trở thành ưu thế, Chính đặc điểm này làm cho tư tưởng Tịnh độ dần dần xuất hiện.


    1. Tư tưởng “Yếm khổ sinh Thiên”


    Các học phái tôn giáo của Ấn Độ cổ đều có chung một nhận định là con người và thế giới này là khổ, giả dối không thật. Đó là manh nha của tư tưởng yếm thế tạo nên xu hướng tìm cầu giải thoát.


    Phái số luận cho rằng con người có ba nỗi khổ: khổ do có thân thể xác thịt; khổ do thời tiết nóng lạnh bức ngặt; khổ do hoàn cảnh xã hội xấu ác. Người ta nếu thoát khỏi ba thử khổ đó thì đạt đến sự an vui vi diệu của tinh thần, nó tạo ra tiền đề của học thuyết giải thoát luân hồi và nghiệp báo, đây cũng chính là điều mà các học phái ngoại đạo Ấn Độ cổ có chung nhận thức.


    Cho nên các hành giả ngoại đạo phần lớn phụng thờ Phạm thiên mà tu thiền định muốn siêu thoát thế gian mà sinh về các cõi trời Vô sắc… Họ cho đó là Niết Bàn vĩnh viễn chấm dứt khổ đau.


    Đức Thế Tôn xuất hiện ở đời, rộng độ chúng sinh. Đối với tư tưởng sinh Thiên của nhân dân Ấn Độ mà dùng phương tiện khéo léo: dùng pháp niệm Thiên sinh Thiên (pháp lục niệm) khiến họ giải thoát được những đau khổ trong hiện tại.


    Đức Thế Tôn thường khai thị: “Người muốn tu thiên tùy niệm, phải nên một mình ở nơi vắng vẻ yên tĩnh, tư duy thiền quán; có bốn cõi trời đó là: Diệm ma thiên, Đâu suất thiên, Hóa lạc thiên và Tha hóa tự tại thiên.


    Lại còn có những cõi trời cao hơn những cõi trời này, song muốn sinh về các cõi trời đó đều phải có đầy đủ tín tâm, công đức nên sau khi thân hoại mệnh chung mới có thể sinh về các cõi đó”.


    Như vậy trước phải nghĩ tưởng đến công đức của chư Thiên, sau đó phải suy nghĩ đến tín tâm, công đức của mình đã đầy đủ chưa, khi đó sẽ không bị tâm lý tham lam, sân giận, si mê trói buộc, khi đó tâm hành giả vì duyên theo chư Thiên mà được chính trực, vì tín đức ngày một sâu dầy, thêm vào đó là tùy niệm thứ thứ công đức của chư Thiên, liền có thể đạt được cận hành thiền, thành tựu được ý nguyện sinh thiên. Sinh vào cõi trời nào đều tùy thuộc vào trình độ phục đoạn phiền não của hành giả quyết định.


    Luận Đại Trí Độ có nói: “Hành giả khi chưa đắc đạo, hoặc tâm tham trước năm món dục thế gian vì thế Đức Phật dạy về phương pháp niệm thiên, nếu có thể đoạn trừ dâm dục thì sinh về hai cõi trời Sắc giới và Vô sắc giới, nếu chưa thể đoạn trừ dâm dục, thì sẽ sinh vào sáu cõi trời dục giới”.


    Đức Thế Tôn vì người căn tính thấp kém hoặc người tham đắm năm dục, trước dùng tư tưởng sinh thiên phúc lạc để dẫn dắt họ phát triển tín tâm, sau đó tiến thêm một bước là khai diễn Tứ Đế, Bát Chính Đạo, Mười hai nhân duyên… tiêu trừ ba độc tham sân si, ra khỏi khổ đau nơi ba cõi.


    Tư tưởng sinh thiên được tiếp nhận vào giáo pháp Tiểu thừa nơi pháp “lục niệm xứ” Lục niệm xứ là: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới (nhớ nghĩ đến công đức của giới hạnh), niệm Thí (nghĩ đến công đức bố thí, niệm Thiên (nghĩ tưởng đến phúc đức của chư Thiên).


    Trong lục niệm xứ hàm nhiếp tư tưởng niệm Phật và niệm Thiên sinh Thiên. Tư tưởng sinh Thiên dần được chuyển thành tư tưởng vãng sinh.


    Tiến thêm một bước nữa là sự kết hợp giữa tư tưởng niệm Phật và vãng sinh, hình thành nên tư tưởng “niệm Phật vãng sinh Tịnh độ”. Tuy nhiên, quá trình diễn tiến không diễn ra một cách bình thường mà phải cần phải có những yếu tố cơ duyên phát khởi.


    Trong kinh điển Tiểu thừa, ban đầu là tư tưởng vãng sinh Tịnh độ đâu suất của Bồ Tát Di Lặc, đây chính là mầm mống xuất phát từ lục niệm xứ diễn biến thành vãng sinh Tịnh độ.


    Từ đó cho thấy tư tưởng Tịnh độ tiềm ẩn, xuất hiện trong lòng Phật giáo Nguyên thủy, chỉ vì căn cơ chúng sinh chưa thể gánh vác được đại pháp xuất thế, nên giáo pháp Tịnh độ chưa xuất hiện mà thôi.


    Trong kinh điển Tịnh độ tông thường trách mắng những chúng sinh có tư tưởng “làm lành sinh thiên” rằng: “Trí tuệ thấp kém chạy theo tà kiến, thường ở trong luân hồi mà không được tự tại”.


    2. Tư tưởng cầu đảo tha lực


    Các học phái tôn giáo Ấn Độ cổ phần lớn sùng bái đa thần, các kinh điển Vệ Đà chính là những lời tán tụng các vị thần. Trong hoạt động tế lễ, mọi người hướng đến các vị thần để tán thán, cầu nguyện, cúng đàng, họ tin tưởng rằng khi cầu nguyện, phụng hiếu thì tâm họ được tiếp nhận tri thức, khu trừ được tăm tối, si mê tội lỗi từ các vị thần và khi chết đi sẽ được về nơi cư trú của các vị thần mà họ tôn thờ vĩnh viễn không còn phải đầu thai trở lại. Dạng tư tưởng cầu đảo tha lực cứu trợ rất phổ biến ở Ấn Độ cổ.


    Đối mặt với thực tế đó, Phật giáo không thể không chú trọng đến tự lực tu chứng, đồng thời triển khai tư tưởng tha lực cứu trợ. Phật giáo vốn phủ nhận thần chủ lực để chủ trương duyên khởi, nhưng ngay nơi sức bản nguyện chư phật xác thực hàm chứa công năng cứu giúp mọi loài (tha lực).


    Cho nên Tỷ khiêu Na Tiên sau khi tiếp kiến vua Di Lan Đà liền nói rằng: “Niệm Phật có thể sinh thiên, niệm Phật có thể tiêu trừ ác nghiệp… người ta tuy có nghiệp ác, nếu một lòng niệm Phật nhờ đó không phải vào địa ngục Nề Lê, liền sinh lên trời”.


    Trong kinh điển Tiểu thừa cũng có tư tưởng tôn ngưỡng tha lực như trong kinh Tạp A Hàm có đoạn: “Hướng theo Phật đi một bước cũng có vô lượng công đức”.


    Kinh Tăng Nhất A làm nói: “Bị bức cúng Phật cũng có thể nói sáu mươi kiếp không doạ ác thú”.


    Đức Thế Tôn từng dạy những người có tâm lý khiếp nhược, hoặc ở vào hoàn cảnh bức bách sợ hãi, tai nạn nguy cấp hãy lớn tiếng niệm Nam mô Phật Đà Da, nhờ đó mà tiêu trừ tai nạn sợ hãi chuyển hung thành cát.


    Trong tuyển tập Bách Duyên kinh có chép: “Có một vị lái buôn tên là Hải Sinh đi vào nơi biển lớn tìm cầu châu báu, chẳng may gặp một trận cuồng phong (bão biển) đưa cả đoàn người trên thuyền trôi dạt đến sát quỷ la sát, trong lúc nguy cấp như vậy, thương chủ Hải Sinh hướng dẫn mọi người thành khẩn niệm Phật lớn tiếng: Nam mô Phật, nhờ đó mà giải thoát được nạn quỷ la sát”.


    Bà La Môn giáo của Ấn Độ có tư tưởng sùng bội tín ngưỡng mặt trời (Phạm thiên) Phật giáo đứng trên lập trường đáp ứng nguyệt vọng và làm lợi ích cho đại đa số quần chúng nên xuất hiện tư tưởng Tịnh Độ của Phật A Di Đà để đáp ứng nhu cầu đó của dân chúng.


    A Di Đà Phật – nghĩa là Vô Lượng Quang, đây chính là phương tiện để thu nhiếp quan niệm sùng bái thái dương của Ấn Độ đương thời. Trong kinh quán Vô Lượng Thọ, thì phương pháp quán đầu tiên được đề cập đến là “quán nhật lạc” (quán mặt trời lặn).


    Trong kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ đức Phật từng dạy ngài A Nan rằng: “Lễ kính đức Phật A Di Đà phải nên hướng về phía mặt trời lặn”. Chỗ mặt trời lặn chính là y xứ rốt ráo của kho tàng ánh sáng (quang minh tàng).


    Tịnh độ tông coi trọng “nhật lạc” cũng chính là ý nghĩa tượng trưng dung nhiếp tư tưởng Ấn Độ sùng bái mặt trời. Điều đó chứng tỏ tín ngưỡng Phật A Di Đà chính là thu nhiếp tư tưởng của các cộng đồng tôn giáo từ Phệ Đà mong cầu sinh thiên cho đến sự tôn sùng thần Phạm Thiên (mặt trời) mà dần dần tịnh hoá phát triển thành tư tưởng Tịnh độ Tây phương.


    3. Sự hiển phát của âm thanh – thật tướng


    Tịnh độ tông chú trọng trì danh niệm Phật, lấy âm thanh làm Phật sự. Ý nghĩa của phương pháp này với quan niệm của các học phái tôn giáo cổ Ấn Độ có ít nhiều quan hệ. Như chữ “A” trong A Di Đà với chữ “án” (om) được các hành giả Ấn Độ cổ đặc biệt coi trọng, có quan hệ mật thiết.


    Căn cứ vào Phạm Thư có ghi: “Do nơi phạm thiên sinh ra vũ trụ từ đó sinh ra chữ án. Chữ án âm đọc là A và Um do ba âm kết hợp. Chữ án là tượng trưng cho phạm thiên. Hành giả tụng âm này là tiến đạt đến cảnh giới Phạm – Ngã hợp nhất”.


    Phật giáo cũng dùng chữ án với đầy đủ công đức chẳng thể nghĩ bàn. Trong Đại Nhật kinh sớ có nói: “Chữ A là gốc của tất cả các pháp, phàm những âm khai khẩu đều là âm A, nếu tách rời âm A thì không còn một lời nói nào cả, cho nên nó là mẹ của các âm thanh”.


    Lại nữa, “Chữ A có năm loại: A, A (đọc kéo dài); án; á, á (đọc kéo dài) từ chữ A chuyển hoá thành bốn chữ nên có người gọi là “A tự ngữ chuyển” (chữ A năm lần chuyển biến âm đọc).


    Chữ án là âm chuyển thứ ba. Dùng ngữ chuyển phối hợp với ngũ Phật thì chữ án tương đương với Tam ma địa của Vô Lượng Thọ Như Lai. Điều đó chứng tỏ án” chính là biến âm của chữ “A” hoặc nói “chữ A” tà sự biến âm của chữ “án” mà hình thành. Án – A thực chất là một thể đồng nhất, do đó có thể thấy trong pháp trì danh niệm Phật của Tịnh độ tông được coi là căn bản của các pháp, nó quan hệ mật thiết với Bà la môn giáo và Mật giáo.


    Trong sáu phái triết học ngoại đạo đương thời thì giáo phái Samansa chủ trương ngôn ngữ âm thanh đều thuộc “âm thanh thực tại”. Tịnh độ tông cho rằng danh hiệu của Phật A Di Đà là hồng danh chứa đựng muôn đức, đó là âm thanh hoá “Diệu minh chân tâm”. Điều đó chửng tỏ: “chủ trương âm thanh thực tại của ngoại đạo đã phần nào củng cố và truyền bá pháp môn trì danh niệm Phật của Tịnh độ tông”.


    Kết luận: Thông qua ba điểm nêu trên có thể nhận thấy rõ ràng: Tư tưởng Tịnh độ ở thời kỳ Phật giáo Nguyên thuỷ có một quá trình hình thành, phát triển từ ẩn đến hiển, từ nông đến sâu.


    Trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thuỷ và Phật giáo bộ phái, sự tôn thờ tin tưởng Tịnh độ chủ yếu là tín đồ tại gia, vì lúc này tăng đoàn xuất gia chủ yếu chú trọng pháp môn tự lực tu chứng, trong tình hình Phật giáo như vậy nên tư tưởng tha lực bản nguyện của Tông Tịnh độ ẩn phục không xuất hiện.


    Về sau, do sự xung đột với tôn giáo ngoại lai, Phật giáo cũng phải dung thông tiếp nhận dẫn dắt rất nhiều người thuộc tôn giáo khác đến quy y Phật giáo, cho nên tư tưởng nội tại (Phật lực cứu giúp) có cơ duyên phát khởi.


    Thêm vào đó là sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt thì lòng tưởng nhớ, hâm mộ Đức Thích Tôn của mọi người trở nên tha thiết, càng những lúc gặp khó khăn tai nạn, phiền não thì lòng tưởng nhớ đức Bản sư càng trở nên tha thiết. Đối với điều kiện khách quan như vậy thì sự phát khởi tư tưởng niệm Phật của Tịnh độ tông là hết sức đắc dụng.


    Do đó có thể đưa ra một nhận định là: Do niệm Thiên sinh Thiên dẫn xuất tư tưởng cầu sinh Tịnh độ của Đức Di Lặc, do hệ thống kinh Bản sinh làm xuất hiện tư tưởng “Bản Nguyện” lực của chư Phật, do có một Đức Thích Ca làm giáo chủ cõi Sa Bà này suy ra các cõi nước khác cũng có Phật giáo hoá, do vậy có thể nói có vô số Tịnh độ của chư Phật, mà thế giới Tây phương cực lạc chính là do nơi đại nguyện của đức Phật A Di Đà mà hình thành chuyên môn tiếp dẫn chúng sinh khắp mười phương vãng sinh về thế giới Cực lạc tu hành đến khi thành Phật.


    Điều này chứng tỏ: tuy trong giáo lý kinh điển nguyên thuỷ, Đức Thích Ca không minh xác một cách tường tận Tây Phương Tịnh độ, song tư tưởng Tịnh độ A Di Đà thực chất xuất phát từ bản hoài độ sinh của Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.