| Tam quan Đền Sĩ Vương |
Âm thanh những chiêng trống cùng những điệu múa lân ấy là để tôn vinh công trạng của người từng được các sử thần Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên tâm phục khẩu phục nhắc lại và viết riêng thành một kỷ riêng trong Đại việt sử ký toàn thư.
Người ấy cách đây hơn 1.700 năm được dân Đại Việt kính cẩn tôn làm vua của nước Việt: Sĩ Vương (tức Sĩ Nhiếp)! Thử trích ngang lý lịch của vị thái thú người Việt gốc Hoa từng trị nhậm đất Giao Chỉ.
Sinh năm 137 mất năm 226. Là hậu duệ của một viên quan người nước Lỗ (cùng quê với Khổng Tử) được sai sang cai trị ở Giao Chỉ đến Sĩ Nhiếp là đời thứ bảy. Chức thái thú như dạng toàn quyền sau này. Sĩ Nhiếp là vị quan có tài nội trị ngoại giao.
Thời tam quốc, nước Tàu như một nồi canh sùng sục những Ngô, Thục, Ngụy tranh giành giằng xé lãnh thổ lẫn quyền lực nhưng đất Giao Chỉ dưới quyền Sĩ Nhiếp vẫn bình an phồn thịnh với kinh đô Luy Lâu (sau này có tên là Liên Lâu, Danh Lâu, Long Uyên và Long Biên.
Gần 500 năm sau, Thái thú Cao Biền mới di dời Luy Lâu ra thành Đại La tức Thăng Long) vững như bàn thạch. Vừa là thái thú, Sĩ Nhiếp còn là một đốc học. Ông là người đầu tiên mở mang việc học và dạy chữ Hán ở đất Giao Chỉ nên sau này trong 33 đạo sắc phong của các vua chúa nước Việt, Sĩ Nhiếp được tôn vinh là Nam Giao Học Tổ.
Đận ấy về phế đô Luy Lâu, sử gia Trần Quốc Vượng cứ xuýt xoa thán phục mãi cái tài trị nhậm lẫn bang giao của Sĩ Vương. Sĩ Nhiếp chưa hề được chiếu chỉ nào phong vương của triều đình phương Bắc.
Luy Lâu của Giao Chỉ chưa khi nào gọi là kinh đô. Và phế đô là từ sau này gọi tạm thế nhưng Dân Đại Việt thời Luy Lâu tất thảy đều gọi Sĩ Nhiếp là vua và chính sử sau này của nước nhà đều tự tin biên chữ Sĩ Vương vào kim sách!
Cứ như GS Trần, thời ấy xưng vua không khó. Hùng cứ làm vua đất Giao Chỉ trong khi cục diện phương Bắc nát bét là việc dễ. Nhưng Sĩ Nhiếp không làm thế. Ông bằng lòng, lặng lẽ với chức quan thái thú, chăm chỉ với những chính sách nông tang mở mang ngành nghề lẫn mở mang sự học cho dân Đại Việt.
Ông quan thái thú này biết nếu mình xưng vương thì ngay lập tức sẽ chết chẹt dưới bàn tay bạo quyền phương Bắc. Chết chẹt đành một nhẽ nhưng mà dân Giao Chỉ cũng ngay lập tức mắc nạn binh đao.
Hơn thế ông lại hằng năm đều đặn mang những sừng tê đồi mồi chim trĩ… khéo léo hối lộ đám vua quan phương Bắc. Chính sách khôn khéo đó khiến Giao Chỉ lẫn thành Luy Lâu gần 50 năm thái bình thịnh trị.
| Phế tích ngôi đền cũ |
Chứng minh cho nền thái bình thịnh trị ấy, GS Trần đưa chúng tôi thăm lại, tất nhiên là hầu hết là phế tích quanh thành Luy Lâu những làng đúc đồng, canh cửi, làng chuyên chế ra thứ mực viết, làng tranh Đông Hồ, làng hát cô đầu, những chùa Bình (Sĩ Nhiếp dựng để bình văn) Chùa Định (dựng để định giá cao thấp) những Gò Nghiên Gò Bút vv…
GS Trần ngước lên mái tam quan vòi vọi của đền Sĩ Nhiếp (dựng sau này dưới thời nhà Mạc) cảm thán rằng, dân mình là công bằng lắm. Gần 2000 năm như thế, nào dám đơn sai xô lệch trong việc nhận xét đánh giá.
Bất kể ông quan thành phần xuất thân ra sao tiêu chí đầu tiên là phải chăm dân lo cho dân. Cái câu thương dân dân lập đền thờ/ hại dân dân chửi ngập mồ thấu xương chả thời nào cũ cả!
Lần trở lại Tam Á đúng dịp tế và rước nhân ngày chính kỵ Thánh Sĩ Vương ( Mồng bảy tháng Giêng âm lịch) cụ thủ từ Nguyễn Quốc Trình mở cửa hậu cung (mới được dựng xây sửa sang) cho chúng tôi vào hương khói.
Lại chỉ cho con cừu đá nằm trấn giữ trước Lăng Sĩ Vương mà lần trước tới đền không kịp để ý… Con cừu đá được tạc cách đây hơn 1700 năm. Tạc vào cái thời thịnh trị thái bình của Luy Lâu.
Ngoài hàng trăm nhân sĩ từ Ngô, Thục, Ngụy về Giao Chỉ lánh nạn, còn có rất nhiều cao tăng Ấn Độ đến Giao Chỉ đến Luy Lâu để thuyết pháp lẫn xây chùa.
Cái giống cừu thời ấy đâu đã di cư di thực về đất nóng ẩm Đại Việt phương Nam? Nhưng những năm thuyết pháp dằng dặc ở xứ Giao Chỉ, các vị cao tăng xứ sông Hằng ấy có thể do chạnh nhớ cố quận, có thể cũng muốn bành trướng thứ linh vật xứ Tây phương bên cạnh những tứ linh long, ly, quy phượng phương Đông cũng có thể để ghi nhớ công ơn che chở, tạo điều kiện cho họ hành nghề của Sĩ Vương bèn cho tạc đôi cừu này.
Mãi đến bây giờ, người ta vẫn không rõ tại sao đôi cừu ấy, một chầu ở Lăng Sĩ Nhiếp, một lại chầu ở Chùa Dâu cách đó khá xa. Mà Chùa Dâu dân lập để thờ con trai Sĩ Nhiếp (thương thay do không tiếp tục được chính sách ngoại giao mềm dẻo của cha, ông con bị phương Bắc chém bay đầu mang thủ cấp về Kinh Châu. Chùa Dâu thờ vị quan cụt đầu là thế!).
Một nghìn mấy trăm năm cứ sừng sững trong dân Luy Lâu trong dân Thuận Thành Bắc Ninh ngôi đền thiêng như thế! Hư đâu sửa đó, hương khói tứ mùa.
Nghe nói năm 1943 ngại máy bay đồng minh nên bặt đi sự rước tế và dằng dặc mãi cho đến nay? Hồi toàn quốc kháng chiến, chấp hành triệt để lệnh tiêu thổ, tự vệ làng Tam Á dùng hàng chục đống rơm quấn quanh ngôi đền thiêng đốt cả tuần mà đền không sụp, đành phá dỡ.
| Cụ thủ từ bên Lăng Sĩ Vương. |
Viên quan hai người Pháp chỉ huy bốt Đậu gần chùa Dâu cho chặt hạ hàng trăm cây cổ thụ quanh đền đề phòng Việt Minh ẩn núp. Lại cho quân dọn về đóng đồn trên nền Đền.
Không hiểu sao mấy đêm quân Pháp lẫn ngụy binh tự dưng cứ thượng thổ hạ tả. Đêm ngủ cứ thấy ngựa xe rầm rập quanh đền. Chưa chạm súng gì với Việt Minh đã tan. Quan quân hoảng quá lại rút về bốt Đậu.
Chuyện cụ thủ từ làm tôi nhớ đến chuyện GS Trần năm nào… Quân nước Lâm Ấp (tên cũ của Chiêm Thành) kéo ra cướp phá Luy Lâu. Quật cả mồ Sĩ Vương lên thấy ngài khí sắc gần 200 năm dưới đất vẫn như đang ngủ, hoảng quá đành lấp lại mà lui binh! Dân dựng đền coi đền và cũng dựng lên những folklore như thế cũng là một cách tôn vinh?
Một chuyện nữa có lẽ cũng do dân bầu để tôn vinh sự học. Di chúc của ngài là khi chết phải chôn sấp. Nhưng học trò cung kính cứ liệm theo lẽ thường.
Vậy là hằng đêm từ ngôi mộ tiếng giảng sách của thầy vẫn cứ vang vang. Người Tàu thấy vậy hoảng bèn chôn thầy sấp lại. Tam Á sau này cũng là đất học, tiến sĩ thời nào cũng có. Việc khuyến học cũng được các ban ngành đoàn thể hưởng ứng tham gia bằng những quỹ này quỹ khác…
Cụ thủ từ dẫn khách đáo qua nhà hữu vu. Tại đó có lớp học Hán Nôm mở cho thanh niên trong vùng. Lớp học bữa nay nghỉ. Trên nền bảng còn lưu lại bài giảng mới với hai câu của cổ nhân: Đồng (có bản chép là dữ) quân nhất dạ thoại/Thắng độc thập niên thư (cùng anh trò chuyện một đêm còn hơn mười năm đọc sách) để răn việc đèn sách lý thuyết suông, không có thực tế, chứng tỏ chương trình học ở lớp Hán Nôm này cũng khá cao?
Tiết giêng hai thời đổi mới về xứ Kinh Bắc về thăm lại phế đô Luy Lâu ghé qua đền thờ vị tổ sự học của nước Nam ta lại chẳng sướng sao?
Lập Xuân năm Sửu








