Trang chủ Đời sống Tâm sự Vu lan – những đóa hồng cho ta

Vu lan – những đóa hồng cho ta

63

Kinh Vu Lan chép rằng "Vào thời Đức Phật còn tại thế, đệ tử thứ 4 của Ngài là Mục Kiền Liên, sau khi giác ngộ Phật pháp đã đặng lục thông chứng quả ngôi Bồ Tát. Ngài Mục Kiền Liên nhớ đến Mẹ mình (là bà Thanh Đề) đã dầy công chăm sóc và nuôi dưỡng nên tìm Mẹ để báo đáp công ơn.

Ngài dùng huệ nhãn để tìm kiếm Mẹ khắp nơi, bất chợt Ngài thấy Mẹ mình bị đày vào Địa ngục sinh làm ngã quỷ, không cơm ăn áo mặc, thân hình tiều tụy!

Mục Kiền Liên thấy Mẹ như vậy thương xót vô cùng, Ngài dùng những phẩm vật dâng lên Mẹ để bù đắp lại cho Mẹ những ngày đói khát! Nhưng vì nghiệp báo và tính bỏn xẻn từ kiếp trước của bà Thanh Đề chưa hết, nên khi đưa cơm lên miệng để ăn, bà Thanh Đề vẫn sợ những ngã quỷ khác cướp mất, nên vội vàng tay bốc ăn tay che đậy, khi đó những phẩm vật ngon lành Mục Kiền Liên dâng Mẹ bị hóa thành những hòn than lửa nóng rực khiến bà Thanh Đề không thể nào nuốt được!!!

Ruột đau từng khúc, nước mắt tuôn rơi, Mục Kiền Liên vội quay về gặp Thế Tôn trình bày cơ sự và mong muốn đức Phật chỉ dạy làm thế nào cứu được Mẹ mình. Đức Thế Tôn với lòng từ bi rộng lớn đã chỉ bảo Mục Kiền Liên cho dù đã chứng ngôi Bồ Tát và với lòng hiếu thảo hoặc nhờ vào những thần lực nào đi nữa cũng không thể cứu Mẹ được mà phải chọn ngày Rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ, sửa soạn cơm canh, nhang đèn, hoa trái và nơi nghỉ ngơi rồi thành kính cung thỉnh chư Tăng và nhờ thần lực chú nguyện của chư Tăng mới có thể giúp Mẹ ông thoát khỏi nạn ngã quỷ…"

 Và mùa Vu Lan ra đời từ đó.

                                                 Công Cha như núi Thái Sơn
                                      Nghĩa Mẹ như nuớc trong nguồn chảy ra
                                                 Một lòng thờ Mẹ, kính Cha
                                         Cho trọn chữ Hiếu mới là đạo con.

Câu ca dao chúng ta được nghe từ lúc còn ẵm ngửa qua lời ru ngọt ngào của Mẹ. Chín tháng mười ngày Mẹ gìn giữ, chăm chút bào thai, lúc sinh nở Mẹ chịu nỗi đau thân thể nhưng vui mừng khi chúng ta chào đời.

Mẹ nhịn ăn chịu đói để nhường chúng ta đủ bữa, Mẹ chịu rét cho chúng ta ấm áp mùa đông, gió quạt mát từ tay Mẹ xua đi cái oi ả mùa hè, chỗ ướt Mẹ nằm nhường chúng ta nơi khô ráo, câu nói đầu đời ta gọi là hai tiếng "Mẹ ơi?".

Công sức của Mẹ không gì so sánh và không có gì báo đáp được. Những năm tháng đất nước bị xâm lăng, Mẹ lại động viên các con lên đường ra mặt trận, tất cả với mong muốn đem lại Hòa Bình và Tự Do cho dân tộc, những mất mát không tránh khỏi của chiến tranh đã khiến hàng vạn, hàng triệu người con đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường và mãi mãi không đựợc trở về trong vòng tay thương yêu của Mẹ.

Những bước chân chập chững chúng ta được Cha dìu dắt, nhân nghĩa ở đời Cha dậy bảo cho ta, tuổi thơ với những trò nghịch ngợm Cha nhẹ nhàng khuyên nhủ, những roi vọt của Cha nhưng uốn nắn một đời người.

Những lời cãi Cha Mẹ lúc nóng nảy, thiếu suy nghĩ, thiếu nhận thức của chúng ta đã làm Cha Mẹ đau lòng, và đó cũng là nỗi ám ảnh ân hận sẽ theo mỗi người trong chúng ta đến hết cuộc đời này, nhưng vẫn chưa hết hơn thế nữa khi mãn nghiệp chúng ta lại phải chịu cảnh cực hình nơi Địa ngục vì tội bất Hiếu…!

Nhân mùa Vu Lan báo hiếu 2009 Phật lịch 2553, xin cài lên áo những ai Mẹ còn Cha mất-đóa hoa hồng nơ trắng, những ai Mẹ mất Cha còn-hoa trắng nơ xanh, xin chia sẻ với những ai đã mất cả Cha và Mẹ- đóa hoa trắng nơ trắng,  xin mừng cho những người hàng ngày vẫn được gọi hai tiếng Mẹ và Cha-đóa hoa hồng nơ xanh.

Còn tôi, tôi sẽ cài lên áo mình đóa hoa hồng nơ trắng, bóng nắng chiều Thu mãi in đậm trong tôi bóng hình người Cha kính yêu đã về miền cực lạc. 

Thành kính một nén tâm hương dâng lên ba ngôi Tam Bảo, chí thành cầu nguyện đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đức tiếp dẫn đạo sư A DI ĐÀ PHẬT cùng các vị Bồ Tát, thánh TĂNG, từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ, Cha Mẹ nhiều đời của đệ tử và Cha Mẹ của tất cả chúng sinh trong cõi Ta bà, sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ siêu sinh cực lạc quốc, ngưỡng mong oai đức vô cùng xót thương tiếp độ.