Trang chủ Diễn đàn Hộ pháp và tu học

Hộ pháp và tu học

Để bạn đọc hiểu sâu hơn về vai trò hộ pháp cũng như chứng bậc của các vị hộ pháp trong pháp giới,  tôi xin kể một truyền thuyết về nguồn gốc của Yama (thần chết) một trong những vị thần hộ pháp của bát đại hộ pháp Phật giáo Tây Tạng.

Một người đàn ông được một vị thánh cho biết rằng nếu ông ta nhập định 50 năm ở trong 1 hang động, ông ta có thể đạt được giác ngộ và giải thoát. Thời gian cứ thế trôi đi, đúng vào đêm ngày thứ 29 của tháng thứ 11 của năm thứ 49. Hai tên trộm đã chạy trốn vào hang động của ông. Trong tay chúng là cái đầu của con trâu mà bọn chúng giết trộm.  Sau khi phát hiện ra người đàn ông đã biết được việc làm mờ ám của bọn chúng, chúng quyết định giết ông để bịt đầu mối.

Ông đã van xin bọn chúng tha mạng, bởi vì chỉ còn vài phút nữa là ông có thể đạt tới giác ngộ. Nếu bị giết chết trước thời hạn 50 năm thì mọi công sức của ông sẽ đổ sông đổ bể.

Bọn cướp phớt lờ trước lời van xin và cắt đứt đầu của ông ta. Ngay lúc đó, ông ta lập tức biến thành yama và đội cái đầu trâu vào cái xác không đầu của mình. Yama giết chết hai tên cướp và uống cạn máu của chúng bẳng cái chén được làm bằng sọ của bọn chúng.Trong cơn điên cuồng báo thù, Yama đe doạ tiêu diệt hết tất cả dân Tây Tạng.

Người dân Tây Tạng nguyện cầu đức Văn Thù Sư Lợi bảo vệ dân chúng trước cuộc báo thù của Yama. Văn Thù Sư Lợi liền vận dụng thần thông hoá thân thành Yamantaka ( Hàng phục dạ ma ) đánh bại Yama, để cứu giúp dân chúng, đồng thời ngài khiến Yama trở thành một trong những hộ pháp của Phật giáo.

Câu chuyện kể trên bao hàm rất nhiều nghĩa, một trong ý nghĩa đó là những vị hộ pháp Phật , chư thiên, phạm Thiên, quỷ thần …thường là những vị đã dày công tu hành nhưng vì một lý do nào đó công phu chưa đến hoặc không giữ được cơn sân hận mà sa địa ngục…

Vì thương xót cho công phu tu hành mà các vị Bồ Tát đã giang tay giúp đỡ và về sau trở thành vị thần hộ pháp Phật.

Như vậy muốn trở thành một vi Hộ pháp Phật trong cõi giới người cũng như các cõi giới khác là điều không đơn giản. Nếu không có công phu tu hành miên mật không hiểu Phật pháp thì không thể đảm đương công việc Hộ pháp được.

Qua một số bài viết của các vị hộ pháp thời nay, có lẽ không chỉ tôi mà khá nhiều độc giả đều nhận thấy, một tấm lòng hướng Phật, bảo vệ Phật pháp của các tác giả. Nhưng chỉ với một tâm lòng hướng thiện, một trí tuệ thế gian tiếp nhận Phật pháp là chưa đủ, nhiều tác giả còn thiếu hoặc chưa đủ một công phu hành trì thiền định, niệm Phật,  tụng  kinh (chân thứ hai của Phật giáo) ở mức độ tối thiểu.

Pháp Phật có pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Muốn hiểu được Phật pháp không thể dùng trí tuệ thế gian mà hiều được mà phải hạ thủ công phu tu hành thì mới hiều được.

Trên thực tế nhiều pháp môn sử dụng công phu tu hành là chính (Tu nhiều học ít) còn lý thuyết là phụ. Hành thiền chứng đến đâu thì tiếp nhận kiến thức đến đó để không gây phiển não và hiểu chính xác các áo nghĩa trong kinh điển Phật thông qua sự chứng ngộ.

Trong Kinh Tại gia Bồ Tát giới (Phẩm 12 – Trang nghiêm Phước đức Trí tuệ) đức Phật có nói:  Người trí có thể phân biệt pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp thế gian tức là tất cả học thuyết cùng thiền định của phàm phu; pháp xuất thế gian là sự hiểu biết về năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới. Bồ tát hiểu rõ nhân duyên của hai pháp, nên có thể lợi mình lợi người.

Điếu đó có nghĩa là ngay cả việc tiếp nhận và hiểu được các kinh điển trong pháp thế gian cũng phải hành trì thiền định. HT. Mahasi Sayadaw trong cuốn Pháp Duyên khởi có nói: “Một phàm phu mà chưa chứng được Tu đà hoàn thì sẽ chưa hiểu và chưa tin được thuyết lý Luân hồi của Phật giáo”.

Chính sự thiếu hụt này đã làm cho tác giả không thể hiều được chính xác nhiều thuyết lý nhà Phật…không hiểu được một số nghi lễ cũng như các động thái của cư sĩ tại gia, tăng sĩ xuất gia…

Ngẫu Ích Đại Sư có nói: “Phải là Người thiện nhân (người tu thập thiện) trong thế gian, mới có thể học pháp xuất thế. Ví như nền đất vững vàng thì tùy ý xây dựng lầu cao muôn trượng, chẳng lo nghiêng ngửa, sụp đổ. Từ đấy, phát tâm chí thành tu trì Tịnh nghiệp. Ắt phải quyết định cầu sanh Tây Phương, trọn chẳng cầu phước báo trời người trong đời sau”.

Vì căn cơ của các chúng sinh khác nhau nên đức Phật phải dùng các phương tiện khác nhau để giáo hoá. Kinh điển Phật thì cao siêu, uyên áo, thâm sâu, vi diệu  thiên binh vạn quyền. Nếu dùng trí tuệ thông thường để hiểu kinh Phật là không thể được. Không hiểu được sẽ không có cái nhìn thấu đáo về mọi sự việc. Điều đó sẽ không phát khởi được lòng Từ, nhìn mọi việc sẽ chỉ thấy mặt trái và làm mất đi công đức hộ pháp của mình. 

Trí tuệ và lòng từ bi là biểu tượng của Phật giáo cũng là cái đích cho sự chuyển hoá tâm của các đệ tử Phật giáo. Hình tướng của trí tuệ và lòng từ bi đó như thế nào ? Đó là tâm tính người trở nền hiền lành, dễ chịu, chỉ còn thấy lỗi mình không thấy lỗi người. Tất cả đều dung thông viên mãn… Càng tu càng thấy tâm vẫn khó chịu, chấp bám vào mọi chuyện, tham sân si không giảm nghĩa là công phu tu hành của mình còn  yếu. Sự chấp bám chưa buông bỏ là chướng nghiệp lớn trên con đường giải thoát.

Để có được tâm tương ứng với cảnh giới Tịnh độ của Phật A Di Đà, người tu phải niệm Phật đến độ nhìn mọi sự việc xung quanh mình thanh tịnh như cảnh giới Tịnh Độ. Trong pháp môn Tịnh Độ có câu “Tâm tịnh thì quốc tịnh. Tâm uế thì quốc uế” nghĩa là nếu tâm mình an thì xunh quanh đều an, Nếu tâm mình phiền não thì cảnh vật xung quanh đều đầy những chuyện khó chịu. Vì cuộc sống trong thế giới Ta bà là ngũ trược vô thường, đầy biến động. Muốn có được sự bình an thì chúng ta phải tu tâm. 84 ngàn pháp môn điều là phương cách chuyển hoá tâm để đi đến sự giải thoát.

Thực tế hiện nay, có không ít người đã mượn danh hiệu Phật để làm lợi cho riêng mình. Thay vì đả phá lên án họ thì chúng ta cần phải phân tích rõ cho họ thấy những quả báo mà họ sẽ phải chịu khi tạo một nhân xấu. Giả làm sư đi khất thực, hay quyên góp tiền … quả báo là đoạ địa ngục. Nếu chúng ta nổi sân  lên án họ thì chính họ cũng không nhận ra được việc làm sai trái của mình. Tự chúng ta đã đốt cháy cả rừng công đức mà chúng ta đang chắt chiu hàng ngày làm tư lương cho sự vãng sinh về Tây Phương cực lạc.

Tôi thường tiếp cận được với các tôn giáo khác. Thật sự, tôi luôn tôn trọng và lắng nghe những thuyết lý của họ để tìm sự tương đồng. Nếu mình nghe với một tâm thiện chí thì họ sẽ tôn trọng mình giống như mình tôn trọng họ. Nếu mình nghe với sự phản bác hơn thua về trí tuệ, họ cũng sẽ đối xử với mình như vậy. Chính sự tôn trọng đó mà rất nhiều người thuộc tôn giáo khác đã có cái nhìn rõ hơn về Phật pháp. Họ bắt đầu tìm hiểu những gì mà họ cho là vô lý đối với người theo đạo Phật như:  xuống tóc, ăn chay niệm Phật… Và họ cũng hiểu những thứ như đốt vàng mã, bói toán… không phải là của đạo Phật.
   
Cách cư xử của chúng ta, cuộc sống của chúng ta là một minh chứng  thuyết phục nhất những người xung quanh. Hiểu được Phật pháp là rất khó, chính chúng ta còn đang trên con đường tìm hiểu nó thì làm sao ta bắt họ ngày một ngày hai hiểu những điều chúng ta đã hiểu. Khi nói về Phật pháp, nhiều điều nói ra tôi chỉ xin họ cứ tiếp nhận, đừng phân tích đúng sai khi nào gặp duyên cảnh tự nhiên sẽ ngộ ra.

Để kết thúc bài viết, tôi xin kể một câu chuyện về cuộc gặp gỡ với một đệ tử của đạo Vô vi.

Bà đã hơn 80 tuổi. Theo đạo của thấy Tám (đạo Vô vi). Gia đình bà mong muốn bà đi quy y Tam bảo nhưng bà không chịu. Bà ngồi thiền hơn 40 năm, làm nghề châm cứu và vẫn niệm Phật, niệm Quán Thế âm Bồ Tát. Tôi hỏi bà : Đạo vô vi sau khi chết thì nguyện sẽ sinh về đâu?  Bà trả lời: Sẽ sinh về cảnh trời do Bồ Tát quán Thế Âm tiếp dẫn. Vì sao bà thường xuyên niệm Phật A Di Đà Phật  mà bà không quy y tam bảo ? Bà nói: Vì bà đã quy y trước thầy nên bà không phản lại thầy của mình dù người thầy đã chết từ lâu.

Tôi nói: Không sao, bà đã thực hiện lời hứa rất tốt. Bà đã đày đủ nhân chỉ cần gặp duyên là bà có thể vãng sanh. Do chướng ngại vì một lời hứa mà bà không thể quy  y được cũng giống như con rùa tu hàng ngàn năm, nhưng nhất định không chịu nhả viên ngọc nên không thể siêu thoát. Khi nào bà sắp đi thì bà cứ niệm A Di Đà Phật như hàng ngày bà vẫn niệm đó. Bà sẽ vãng sanh về cảnh giới mà Quán Thế Âm tiếp dẫn như bà đã nguyện. (cảnh giới đó cũng chính là thế giới Tây Phương Cực lạc).

Một chúng sinh đã niệm Phật, đã thành tâm hướng về Quán Thế Âm Bồ Tát cũng là người như các Phật Tử chúng ta. Chỉ khác là họ đi trên con đường khác thì tại sao chúng ta lại cứ nhất nhất bắt họ phải quy y như chúng ta, để tạo ra những xung khắc không đáng có.

Hoằng Pháp, hộ pháp là những công việc có lợi cho người, cho đời. Nhưng nếu chỉ lo hoằng pháp mà không lo tu, thì sự an lac giải thoát không được cân bằng, người đó chỉ có phước mà không có huệ.