Trang chủ Diễn đàn Có công đức không?

Có công đức không?

Tổ Bồ-đề Đạt-ma sang Trung Hoa truyền pháp vào đời nhà Lương (năm 520 thuộc kỷ nguyên Tây lịch), vua Lương Võ Đế cho người thỉnh Ngài về kinh đô ở Kim Lăng. Đến tham kiến ngài, vua hỏi: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, tạo tượng, chẳng hay những việc ấy có công đức không?”.

Tổ đáp: “Những việc làm ấy không có công đức”.

Vua tỏ vẻ không hài lòng, hỏi: “Tại sao không có công đức?”.

Tổ nói: “Những việc bệ hạ làm đều là nhân hữu lậu, chỉ có phước báu nhỏ ở cõi người, cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật”…

Sau cuộc tham vấn, do không lãnh ngộ được lời Tổ, vua bèn cáo lui. Tổ biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại triều Lương không bao lâu rồi đi sang nước Ngụy và dừng chân tại chùa Thiếu Lâm tại núi Tung Sơn. Tại đây, sau chín năm Tổ đã truyền thừa cho Ngài Huệ Khả, mở ra dòng thiền lớn ở Trung Hoa.

Vua Lương Võ Đế trước khi gặp Tổ Bồ-đề Đạt-ma đã từng thọ giáo với Hòa thượng Chí Công, một bậc cao tăng đắc đạo đương thời. Lúc nhà vua hỏi Tổ: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa tạo tượng, chẳng hay những việc ấy có công đức không?”, thật ra trong tâm Lương Võ Đế đã có ý niệm xây chùa tạo tượng là việc làm có công đức, phước báu; câu hỏi của vua dường như không phải hỏi để biết, để xác chứng lợi ích việc mình làm, mà là sự thể hiện bản ngã của mình: “ta đã cất chùa tạo tượng rất nhiều, đã làm biết bao nhiêu là công đức”.

Việc vua hỏi như thế cho thấy trong tâm nhà vua đanh hiện hữu ý niệm về ngãn (ta) và ngã sở (chùa của ta xây dựng, việc làm Phật sự của ta, công đức của ta tạo), và cho thấy vua làm việc đạo với tâm tham cầu (tham cầu công đức, phước báu), chấp trước (có làm Phật sự, có tạo công đức, phước báu).

Hễ làm việc từ thiện, làm việc Phật sự với tâm chấp trước, tham cầu thì chỉ có phước báu hữu lậu chứ không có công đức. Phước báu cõi trời cõi người một khi hưởng hết thì tiếp tục trôi nổi trong sinh tử luân hồi, phải chịu phiền não khổ đau.

Nếu việc làm từ thiện xuất phát từ tâm đại bi, vô cầu, không vì danh lợi, nếu việc cất chùa tạo tượng xuất phát từ tâm Bồ đề, từ ý niệm phụng sự Phật pháp, phụng sự chúng sinh, làm với tâm vô trụ chấp thì sẽ có công đức, phước báu vô lậu không thể nghĩ bàn.

Người tu học Phật đôi khi lầm lẫn giữa cứu cánh và phương tiện, giữa sự nghiệp giải thoát xuất thế và sự nghiệp tầm thường của thế gian, những phước báu hữu lậu. Khi cất chùa tạo tượng, người ta nghĩ đó là sự nghiệp của đời mình, đôi khi quên rằng chính dụng tâm tu trong lúc thực hiện những việc đó mới là quan trọng.

Chùa to tượng lớn cũng chỉ là pháp hữu vi, luôn thay đổi biến hoại và không có cái gì thật của mình. Chùa tao tượng lớn cũng chỉ là phương tiện để hoằng truyền Chánh pháp lợi lạc chúng sinh, để làm phương tiện tu hành.

Sự nghiệp của người tu học Phật là trí tuệ, là sự giác ngộ giải thoát, đó là sự nghiệp chân chính cần phải tạo nên. Ngày nào vẫn còn chịu sự ràng buộc, chi phối của phiền não khổ đau, chưa thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, thì ngày ấy sự nghiệp vẫn chưa thành.

Chùa to tượng lớn rất cần cho công cuộc hoằng hóa nhưng phải đáp ứng nhu cầu thiết thực. Người tu học Phật nếu xem việc cất chùa tạo tượng, làm các công trình Phật giáo là sự nghiệp quan trọng nhất của đời mình rồi đua nhau làm, cất chùa to để đó không có người tu, in kinh tạo tượng nhiều để đó không có người đọc tụng, lễ bái, tạo nhiều công trình hữu vi ấy để lấy thành tích thế gian…thì thật là sai lầm đáng tiếc, uổng phí cả một đời.

Những kẻ ngoại đạo cũng nhân đây mà phê bình, công kích Phật giáo. Có nhiều ngôi chùa nguy nga tráng lệ tốn nhiều tiền của và công sức để tạo dựng nên nhưng không có đông Tăng Ni ở, không có chương trình tu tập, giáo dục Phật pháp, thật lãng phí đáng tiếc!

Nếu người tu dụng tâm sai, quên mất tâm Bồ đề, quên mất lý tưởng giải thoát thì việc Phật sự trở thành thế gian sự, làm việc đạo nhưng chẳng khác làm việc đời, là bỏ gốc theo ngọn, chạy theo pháp hữu vi mà quên bỏ pháp vô vi.