Trang chủ Văn hóa Di sản văn hoá chuông đồng ở Bắc Giang

Di sản văn hoá chuông đồng ở Bắc Giang

Từ điển tiếng Việt có ghi: “Chuông, nhạc khí đúc bằng đồng, lòng rỗng miệng loe tròn, thành cao, thường có quai để treo, tiếng trong và ngân dài, thường dùng trong các buổi lễ tôn giáo”.


Là nhạc khí nhưng chuông chỉ gắn với sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng ở các ngôi chùa, đền, quán, miếu…


Hiện nay, ở Bắc Giang tồn tại hai loại chuông được gọi là chuông Nam và chuông Tây: Chuông Nam là loại chuông do người Việt Nam đúc ra đã có từ lâu đời được dùng trong đền, miếu, đặc biệt trong các ngôi chùa Phật giáo như ở: chùa Bổ Đà (Việt Yên), chùa Đức La (Yên Dũng)…


Loại chuông này khi đánh dùng vồ bằng gỗ, gõ vào núm ở ngoài mặt chuông (còn gọi là chuông đánh). Khi đánh tạo nên tiếng kêu trầm ấm và ngân dài.


Chuông Tây là loại chuông có nguồn gốc xuất xứ từ các nước phương Tây, chuông có dáng thân ngắn, miệng loe rộng, dùi đánh bằng kim loại, được xỏ dây treo qua đỉnh chuông, dùi nằm trong lòng chuông, khi đánh chỉ cần cầm dây kéo, dùi đập vào thành trong cửa chuông tạo nên tiếng kêu và vang rất xa (loại này còn gọi là chuông kéo).


Chuông Tây chỉ được dùng trong nhà thờ Thiên Chúa Giáo như ở nhà thờ Mỹ Hà, giáo xứ Thiết Nham, nhà thờ Cựu Tân…


Sự hình thành và phát triển của chuông đồng được tính từ những chiếc chuông đầu tiên thuộc nền văn hoá Đông Sơn cho đến những quả chuông mới được đúc ngày nay.


Từ văn hoá Đông Sơn qua thời kỳ Bắc thuộc đến thời Lý, Trần, Mạc trên đất nước Việt Nam nói chung và trong địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng, sử cũ vẫn nói nhiều đến việc đúc chuông nhưng do thời gian mai một, do chiến tranh… mà hiện nay chứng tích về những quả chuông này được phát hiện có số lượng ít, có thể kể một số quả chuông tiêu biểu như: chuông phát hiện tại xã Thanh Mai (Hà Tây thế kỷ VIII), chuông chùa Vân Bản, chùa Phú Ninh (Hà Giang thời Trần), chuông chùa Mui (Hà Tây đúc năm 1619)…


Trên đất Bắc Giang những quả chuông cổ đã được phát hiện vào thời Tây Sơn chiếm số nhiều, một số quả chuông tiêu biểu như: chuông chùa Cò xã Mỹ Thái đúc năm Cảnh Thịnh thứ 6-1793, chuông chùa Long Quang đúc tháng 3 năm 1718 xã Thái Đào, huyện Lạng Giang, chuông chùa Đoan Minh đúc năm 1793 xã Vân Hà, chuông chùa Trung Đồng đúc năm 1793 xã Vân Trung, huyện Việt Yên…


Về tạo dáng, chuông có hình dạng: miệng loe, lòng rỗng, thân cao, vai lát, trên đỉnh có quai treo được tạo bởi một hoặc hai rồng chính và bốn rồng con chụm dính vào nhau.


Nếu quai chuông chỉ là một con rồng thì tạo phần đầu và phần đuôi rồng được làm cân đối, có điểm chốt treo trên móc vào giữa lưng rồng, còn quai được làm bởi hai con rồng, hình rồng đấu lưng vào nhau, hai đầu toạ hai bên núm treo ở chính giữa hai thân rồng.


Về kích thước chuông thời kỳ này thuộc loại lớn có cả loại đại hồng chung như chuông chùa Trung Đồng, chuông chùa Long Quang, chùa Bổ Đà… và có một số quả nhỏ kích thước nhỏ như quả chuông chùa Đoan Minh, chùa Vân Cốc… phần lớn những quả chuông đều có niên đại, tên chuông thường là bốn đại tự đúc nổi hoặc khắc chìm trong khung hình lá đề, hình vuông, hình tròn và hình chữ thọ, một số quả chuông có 8 chữ đại tự như quả chuông chùa Long Quang: Long Quang thiền tự dương chú hồng chung…


Loại chuông thời này thường có bốn núm, có đường kính nhỏ hơn chiều cao của thân chuông, tạo một cảm giác thuận mắt với sự thon thả và đường viền mềm mại, thanh thoát.


Sang thời Nguyễn, nhiều địa phương trong tỉnh trùng tu, tu sửa và xây dựng những công trình tín ngưỡng như: chùa, đền, miếu, đi đôi là việc đúc chuông và tô tượng. Chuông thời Nguyễn phát triển phong phú về loại hình gồm nhiều kích cỡ, thời kỳ này kiểu dáng chuông phát triển theo chiều dài nên nhìn hơi gầy so với thời kỳ trước, chuông thường tạo đứng nên cảm giác hơi cứng, quai chuông thường làm thành hai con rồng ngoắc đuôi vào nhau, có bốn ô dưới thường được chạm tứ linh nổi hoặc chìm.


Loại chuông thời này thường có bốn núm, phần lớn những quả chuông đều có niên đại, tên chuông thường là bốn, sáu có khi là mười hai đại tự đúc nổi hoặc khắc chìm trong khung hình lá đề, hình vuông, hình tròn và hình ô trám, tiêu biểu như quả chuông đúc vào tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 7 – 1826 tại chùa Phúc Thắng, xã Tân Thanh, chuông chùa Quang Hảo đúc ngày 3-8-1838…


Từ năm 1945 đến nay, kinh tế – xã hội phát triển nhiều thiết chế văn hoá vật thể được xây dựng như chùa, đền, nhà thờ đạo… nên việc đúc chuông được địa phương và những tấm lòng hảo tâm công đức nhiều.


Chuông đồng Bắc Giang trừ một số được đúc về sau có màu sẫm giống màu gang, mặt rỗ, còn hầu hết chuông cổ có màu đồng đỏ tía rất đẹp. Chuông thường ghi niên đại một cách tuyệt đối, chính xác, có bài minh văn phản ánh về tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tôn giáo, về địa danh, nhân danh, về sự kiện xây dựng, trùng tu di tích hay nói về việc công đức của các mạnh thường quân trong việc tôn tạo và kiến thiết di tích…


Mỗi quả chuông là một tác phẩm nghệ thuật về tạo dáng, chữ viết, hoa văn trang trí, đó là một bằng chứng của trình độ kỹ thuật đúc, kỹ thuật khắc đương thời. Việc lưu giữ và khai thác thông tin từ chuông với tư cách là nguồn sử liệu gốc giúp cho công tác nghiên cứu hiểu lịch sử, văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật và kỹ thuật của thời đại sản sinh ra nó.