Trang chủ Văn hóa Kho báu về một dòng Thiền

Kho báu về một dòng Thiền

45

 

 

 

Kho báu vô giá nói trên hiện đang được bảo lưu tại ba ngôi chùa ở Hội An gồm Chúc Thánh, Vạn Đức và Phước Lâm – Tổ đình của dòng Lâm Tế – Chúc Thánh VN.
 
Cổ vật trong chùa
 
Qua điền dã, khảo sát thực địa, các cán bộ nghiệp vụ của Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An đã phát hiện hàng trăm bản in cổ khắc gỗ tại 3 ngôi chùa được xây dựng từ thế kỷ XVII.
 
Ông Trần Văn An, Phó Giám đốc Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An, cho biết: “Tại chùa Vạn Đức hiện còn 115 bản in. Dựa theo độ dài, chúng tôi tạm phân chia thành 3 loại. Có 85 bản dài từ 44,5 cm – 50 cm; 23 bản từ 56 cm – 65 cm và 9 bản dài từ 70 cm – 78,5 cm. Trong đó, có 106 bản in hai mặt, còn lại là một mặt. Hầu hết đều được khắc chữ Hán chân phương, sắc nét; một số bản có kèm cả hình Hộ pháp, Địa tạng, Chư Phật hải hội…”.
 
Kết quả giám định cho thấy các bản in đều được làm bằng gỗ mức và gỗ thị. Đa số bị nứt ở hai đầu, dọc theo sớ gỗ. Vùng biên bao quanh đã bị mục, bị thoái hóa nặng ở một đầu. Nguyên nhân có thể do chúng được xếp một đầu tiếp xúc với đất và mưa, trải qua thời gian bị ẩm mốc nên tất cả đều xuống cấp, mềm, dễ ngấm nước. Ngoài ra, một số bản có dấu hiệu bị mối mọt tác động. Theo lời kể của các tăng sĩ, trước đây, nhiều bản in đã từng bị đốt đi do mối mọt phá hoại hư hỏng hoàn toàn.
 
Tại chùa Phước Lâm, nằm cách chùa Chúc Thánh khoảng 500 m về phía Tây Bắc, mặc dù số lượng bản in hiện còn ít hơn chùa Vạn Đức với 86 bản nhưng có nhiều kích cỡ hơn, dao động từ 26 cm – 138 cm, rộng từ 8 cm – 54 cm.
 
Trong đó có 51 bản in hai mặt. Loại chữ khắc hầu hết là chữ Hán, riêng 12 bản in các loại bùa bằng chữ Phạn kèm theo hình… Tuy các đường biên xung quanh không bị mục nhưng tình trạng hư, mòn chữ do ẩm ướt và các loài gặm nhấm phá hoại lại nhiều hơn.
 
Vài bản kích thước lớn đã bị mo hoặc nứt dọc theo thân, 2 bản bị vỡ đôi. Chất lượng gỗ đã bị thoái hóa nặng, nhất là đối với các bản in có niên đại sớm.
 
Kho báu kinh Phật
 
Căn cứ nội dung, có thể xác định đây là các bộ kinh quan trọng của Phật giáo đại thừa, gồm các bộ Di đà, Kim cương, Quan âm, Bát nhã ba la mật, Thái thượng tam nguyên, Huyết hồn, Địa tạng, Hoa nghiêm, Kim cang, Vu lan, Thọ mạng, Thọ sinh, Quan thánh giác thế… Bên cạnh đó còn có các loại thần chú như Thập quỷ ủng hộ thần chú, Đại uy lực thần chú, Hựu thánh lục tự thần chú, Vô lượng thọ thần chú, Phật tâm ấn thần chú…
 
Ông Tống Quốc Hưng, chuyên viên Hán Nôm của Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An, cho biết: “Chúng tôi thật sự ngỡ ngàng trước nhiều bản in độ điệp, pháp phái quy y, kế thế truyền thừa… có niên đại khá sớm. Đây là cơ sở tư liệu để làm rõ về sự phát triển của Phật giáo ở Hội An và Đàng Trong”.
 
Một số bản in tại chùa Vạn Đức ghi chú năm khắc như 3 bộ kinh Di đà, Kim cương, Quan âm năm Thiên Thuận Nhâm Ngọ (1482), đây là niên hiệu của vua Minh Anh Tông (Trung Quốc). Bản khắc còn ghi “Kinh này do tỳ kheo Vạn Trung dựa theo bản chính viết lại vào ngày Phật đản năm Thiên Thuận Nhâm Ngọ và cho thợ khắc bản gỗ in ban phát cho mọi người trì tụng.
 
Pháp sư Đạo Ngung, người Nam Đường ở chùa Vĩnh Khánh, phủ Thọ Xuân dịch”. Các thông tin này cho hay đây là bộ bản in có niên đại từ thế kỷ XV từ Nam Trung Hoa du nhập sang.
 
Nhiều bản ghi năm Quang Thuận 21 (1598), Chính Hòa 26 (1706), Cảnh Hưng 15 (1754), Cảnh Hưng 25 (1764). Đây là niên hiệu các đời vua Lê, cho thấy đa số đều được khắc trong nước và có khung niên đại kéo dài từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Một số bản được khắc ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và các chùa ở Hội An rồi chuyển về bảo quản.
 
Theo Thượng tọa Thích Hạnh Hoa, trụ trì chùa Phước Lâm, dù ngôi chùa đã được trùng tu nhiều lần nhưng tất cả các bản in này đều được bảo quản. Vì thế, tại chùa còn lưu giữ nhiều bản được khắc tại Trung Quốc mang sang như bản in Tuyển tăng đồ, niên hiệu Khang Hy Giáp Thìn (1664). Một số bản ghi niên hiệu các đời vua Việt Nam như Cảnh Hưng (thế kỷ XVIII) đến Bảo Đại (thế kỷ XX).
 
Riêng tại chùa Chúc Thánh, hiện có 11 bản kinh Phổ Môn, in liên hoàn, dài đến 13,5 m gồm 14 bản in hai mặt. Hầu hết đều có khắc hình về các hành trạng của Quan Âm Bồ Tát, nét tinh xảo, điêu luyện, có giá trị cao về nghệ thuật khắc gỗ. Đây là bộ bản in do thợ của làng mộc truyền thống Kim Bồng – Hội An khắc vào đầu thế kỷ XX.
 
 “Tri hành hợp nhất”
 

Trưng bày bản in “Diệu pháp liên hoa kinh” do Hòa thượng Chơn Nhật – Quang Minh khắc năm 1936 tại chùa Chúc Thánh
 
Có thể thấy rằng các bản in gỗ là những hiện vật có giá trị về nhiều mặt, góp phần làm phong phú bề dày lịch sử – văn hóa của đô thị cổ Hội An và là nguồn sử liệu, tư liệu quý cho quá trình nghiên cứu sau này. Đặc biệt, cùng với nhiều tài liệu, thư tịch khác, đến nay, giới nghiên cứu đã chứng minh sự ra đời và phát triển của một dòng Thiền độc đáo và phổ biến trên toàn lãnh thổ Việt Nam cũng như tại các nước Âu Mỹ.
 
Theo Thượng tọa Thích Đồng Mẫn, trụ trì chùa Chúc Thánh, tổ sư Minh Hải, đời thứ 34 dòng thiền Lâm Tế từ Trung Hoa sang Việt Nam khai sơn tổ đình Chúc Thánh tại Hội An và đã xây dựng một triết lý riêng biệt cho dòng Thiền Lâm Tế – Chúc Thánh. Đó là triết lý “tri hành hợp nhất”, tức hiểu và làm thông suốt với nhau, đang được truyền thừa tại 67 ngôi chùa từ Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, TPHCM, Tiền Giang cho đến các nước Úc, Mỹ, Ấn Độ, Đức. Quá trình phát triển tông môn, pháp phái đó, một phần đã được phản ánh qua các bản in gỗ này.
 
Ông Trần Văn An khẳng định: “Sắp đến, chúng tôi sẽ nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề liên quan đến nghệ thuật khắc gỗ, về quá trình giao lưu văn hóa mà kinh sách là một trong những phương tiện phản ánh vai trò của cảng thị Hội An với tư cách là một trung tâm tiếp xúc, giao lưu văn hóa và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong”.
 
In sao để lưu trữ, nghiên cứu
 
Do đặc điểm về chất liệu nên rất khó kéo dài tuổi thọ cho các bản in gỗ. Thêm vào đó, nhiều bản có niên đại trên 300, 400 năm, lại rất quý hiếm trên phạm vi cả nước.
 
Vì thế, ngay sau khi phát hiện, trong gần nửa năm, Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An đã cử hàng chục cán bộ về các ngôi chùa để xem xét và tổ chức in dập tổng cộng 212 bản với 740 tờ.
 
Tại chùa Vạn Đức đã in được 442 tờ bằng giấy dó, mực xạ; trong đó, mỗi mặt in 2 bản để lưu trữ và sử dụng nghiên cứu.