Trang chủ PGVN Nhân vật Mấy cảm nghĩ về HT. Kim Cương Tử

Mấy cảm nghĩ về HT. Kim Cương Tử

Theo Thượng tọa Thích Thanh Nhã, chủ trì chìa Trấn Quốc thì vào năm 19 tuổi (1933) thanh niên Trần Hữu Cung đã quyết chí xuất gia đầu Phật.

Tâm trạng của nhiều thanh niên thời buổi đó đứng trước hoàn cảnh xã hội, trong đó tuyệt đại nhân dân đều sống nghèo, thiếu thốn dưới ách của thực dân Pháp, phong kiến. Từ thâm tâm muốn cứu nước cứu dân, chúng tôi thường tự hỏi làm thế nào để dân ta ra khỏi cảnh nô lệ, lầm than này. Sự bất công và bất bình bình đẳng trong xã hội thường dẫn thanh niên chúng tôi gặp gỡ nhau trong những suy tư day dứt về nguồn gốc và ý nghĩa cuộc sống. Nguyên nhân nào đã đem lại sự chia cắt sâu sắc giữa pú quý và bần hàn, giữa tội ác và đau thương?

Không tìm được câu trả lời cho cuộc sống trần thế này, chúng tôi dễ dàng hướng về lối giải thoát của các bà, các mẹ chúng tôi là tinh thần từ – bi – hỷ – xã của đạo Phật.

Trong thời kỳ ấy, Phật học được phát triển qua các tờ báo như tờ Đuốc Tuệ ở miền Bắc, tờ Từ Bi Âm ở miền Nam, Viên Âm của cụ Lê Dình Thám ở miền Trung. Đặc biệt tạp chí Viên Âm đã đem lại cho chúng tôi ý nghĩa sâu sắc của Phật học bằng sự am hiểu sâu sắc về phần giáo lý.

Ông Trần Hữu Cung đã sớm xuất gia và không bao lâu đã được nổi tiếng qua các cuộc thuyết pháp và từ đó đã tiến bộ rất nhanh chóng trong cuộc đời tu hành. Còn tôi thì lao vào con đường trần thế để cứu nhà cứu nước, trực tiếp đấu tranh theo con đường cách mạng của cụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản.

2. Ngày hôm nay, trong cuộc hội thảo về Hòa thượng Kim Cương Tử, nhân 10 năm ngày mất của Người, tôi xin có vài trang suy nghĩ về Hòa thượng, con người đã gắn liền tôn giáo với nhân sinh, Phật học và Tổ quốc. Tự đặt cho mình pháp danh Kim Cương Tử, Hòa thượng nói: “Tôi là học trò của Đức Kim Cang Thượng Sư, Kim Cương tử là thứ quả cây mặt trời, một thứ quả rất cứng rắn. Kim Cương tử là đệ tử của giáo thừa Kim Cương” (1).

Tôi nghĩ rằng có lẽ Hòa thượng còn tự xác định là một đệ tử của Kinh Kim Cương, một cuốn kinh ngắn gọn nhưng lại là đỉnh cao của tư tưởng Phật giáo, Kinh Kim Cương là chúa của các kinh, nghĩa lý uyên thâm, văn chương cổ kính. Trong lịch sử Phật giáo, các vị cao Tăng, các Thiền sư đã trở thành những vị đại giác đều do kinh này mà vươn tới đỉnh cao của Phật học. Thời nhà Trần, từ Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ đến tam tổ Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Huyên Quang, Pháp Loa đều do kinh này mà nắm được ý nghĩa uyên thâm nhất của Phật giáo. Trần Thái Tông nghiên cứu Kinh Kim Cương đã coi câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” là câu đắc đạo của mình.

Tôi nghĩ rằng Hòa thượng Kim Cương Tử đã đạt tới những giá trị cao nhất của Phật học, đã nắm vững kinh Kim Cương và tự coi mình là đệ tử của kinh Kim Cương. Kim Cương tử, Người không nói với ai đều này nhưng đã lặng lẽ xây một tòa Kim Cương bảo tháp trên mãnh đất mà cha ông để lại ở quê hương mình.

Có thể nói suốt cuộc đời, Hòa thượng đã suy nghĩ và hành động trên cơ sở giáo lý của kinh Kim Cương, nhưng Người lại không bao giờ đem kim Cương ra giảng giải cho quảng đại Phật tử và nhân dân. Vì đối với những người mới đến cửa ngõ của Phật giáo, phải bắt đầu từ cuộc sống hằng ngày của xã hội và của bản thân, rồi từ đó mới đi dần vào những giá trị uyên thâm của Phật học …

3. Kim Cương Tử là vị Hòa thượng nhập thế. Người dấn thân vào cuộc sống đầy khó khăn và đau khổ của nhân dân. Bằng những lời nói giản dị và câu văn rõ ràng, Người đem đến cho nhân dân những lời răn của Phật Thích Ca và chư Phật về đạo làm người, về lòng mến nước thương dân, đặc biệt về truyền thống lâu đời của Phật giáo Việt Nam.

Người luôn luôn nhấn mạnh tính Việt Nam trong đạo Phật của chúng ta. Người luôn gắn tinh thần từ – bi – hỷ xả của đạo Phật với lòng yêu thương mãnh liệt, tinh thần sáng suốt và khí phách anh hùng của nhân dân ta trong đạo lý cứu dân, cứu nước, cứu đời.

Lời nói đi đôi với việc làm, đó là tác phong của Hòa thượng. Tại Hà Nội cũng như tại Hải Phòng và ở nhiều nơi khác, Người đã suy nghĩ và hành động theo hướng nói trên.

Từ sau Cách mạng tháng Tám, Hòa thượng càng có điều kiện thuận lợi để vừa hành đạo, vừa phục vụ Tổ quốc. Tôi không đi sâu vào những điểm này, những điểm mà Thượng tọa Thích Thanh Nhã đã nói rất kỹ, và các vị đại biểu về dự hội thảo hôm nay tiếp tục nói thêm …

Tôi chỉ xin nêu lên ở đây những điều mà chúng ta có thể hỏi ở Người trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, cuộc sống ở cả tâm linh và thế tục.

a. Trước hết là vấn đề lễ bái tụng niệm
: Hòa thượng thường nói: Lễ Phật là kính Phật, tụng kinh niệm Phật, tưởng nhớ và làm theo lời Phật dạy để mà tu thân. Chính vì thế mà khi lễ Phật, người tu hành không nhất thiết phải lễ bái nhiều. Khi Phật còn tại thế, ai gặp Phật phải trịnh trọng lễ một lễ để bái chào Ngài là đủ, nếu lễ nhiều thì người ta cho là quái gở (nhân văn quái chi). Thế mà những người sau lại còn phụ họa thêm các thứ lễ khác, đưa cả những món tạp ngoại xáo trộn vào phép lễ Phật (2).

Hòa thượng khuyên rằng: “Khóa lễ thông thường cần phải vừa gọn nhẹ, vừa thích hợp với chí nguyện chân chính. Lọc bỏ những cái dị đoan mê tín tạp ngoại. Rồi đến các thứ kinh sách và sự thờ cúng từ ngoài pha trộn vào, đều sẽ phải phân biệt rõ ràng và từng bước đẩy lùi, loại trừ gạt bỏ” (3).

Tôi nghĩ rằng những lời dạy của Hòa thượng nói trên đây đang thích ứng với tình hình lễ bái ngày một nảy sinh rất nhiều những hình thức phức tạp mà các vị chân tu trong Giáo hội chúng ta cũng thường nhắc nhở. Chúng tôi cũng hy vọng những ý kiến hợp lý của Hòa thượng Kim Cương Tử sẽ được giới Phật tử của chúng ta quan tâm để việc lễ Phật mang ý nghĩa lớn và việc học tập lời răn dạy của Đức Phật được thực hiện trong mọi ý nghĩ và việc lầm của chúng ta hôm nay.

b. Hòa thượng Kim Cương Tử nhắc nhở là phải noi theo chính tín và gạt bỏ mê tín. Hòa thượng nói: “Mê tín là tin một cách mê lầm, mù quáng, nhảm nhí không có căn cứ; chấp nệ, cứng đờ, nhắm mắt tin liều, thờ phụng hay làm những cái không chính đáng, không thật có, lạc hậu, lỗi thời, tác hại cả tinh thần lẫn vật chất của nhân dân, như đồng bóng, bói toán, vàng mã, phù bùa, tôn bát nhang …”

Đọc những lời nói trên, chúng ta cảm thấy như Hòa thượng vẫn đang sống để cùng với Giáo hội phê phán những hiện tượng đang diễn ra trên đất nước ta. Tôi nghĩ rằng trách nhiệm của chúng ta là cùng với Giáo hội lên án mạnh mẽ những việc làm nói trên, như những đám mây mù của mê tín đang che lấp tai mắt của người đời trước, lời nói và việc làm cao cả của Đức Phật.

c. Những lời thuyết pháp và những bài viết của Hòa thượng Kim Cương Tử đã được ghi lại trong cuốn sách nhỏ do Thượng tọa Thích Thanh Nhã chủ trì phát hành cách đây 12 năm. Tôi nghĩ rằng có thể còn nhiều lời nói và bài viết của Người chưa ghi hết được. Tuy nhiên, cuốn sách đã phản ánh được những ý kiến quan trọng của Hòa thượng từ chiều sau của tâm hồn và trí tuệ. Với sự sáng suốt của một trí thức và sự tinh vi của một nhà thơ, Hòa thượng đã để lại những trang thơ đầy tâm huyết. Bài lục bát gồm 87 trang đã tóm lược cuộc đời và thành quả của Đức Phật Tổ, với những lời lẽ chân thành và đầy cảm xúc.

Tôi nhiệt liệt hoan nghênh Thành hội Phật giáo cùng vị chủ trì chùa Trấn Quốc và Viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tổ chức cuộc hội thảo nhân 10 năm ngày viên tịch của Hòa thượng Kim Cương Tử. Cùng ôn lại tiểu sử của Hòa thượng, cùng nghiên cứu những di cảo của Người, chúng ta tưởng Người vẫn đang sống và đang cùng chúng ta phát huy truyền thống của Phật giáo Việt Nam trong sự gnhiệp của dân tộc ta và nhân loại ngày nay, không chỉ để tôn vinh Hòa thượng mà còn để biến ước mong sâu kín của Hòa thượng thành hiện thực./.

Chú thích:

(1) Trích trong sách Những bài viết của Hòa thượng Kim Cương Tử – tr. 246

(2) Sđd – tr. 267

(3) Sđd – tr. 272 – 273