Trang chủ PGVN Nhân vật Người xây chùa VN ở đất Phật: Tự hào là người Việt...

Người xây chùa VN ở đất Phật: Tự hào là người Việt Nam

 

Năm 1987, ông đã cất công xây dựng Việt Nam Phật Quốc Tự, ngôi chùa Việt Nam đầu tiên ở nơi Đức Phật khai minh và thành chính quả (Bodh Gaya, bang Bihar, Ấn Độ). Ông cũng là người ngoại quốc đầu tiên được chính phủ Vương quốc Nepal cấp đất xây dựng chùa Việt Nam tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni), nơi Đức Thích Ca sinh ra, để từ đó gần 30 nước khác hưởng ứng, lần lượt xây dựng chùa của nước mình, tạo thành một Liên Hiệp Quốc Phật giáo tại Lumbini.
 
 Thầy Thích Huyền Diệu trong một lần về thăm Việt Nam.
 
Hiện tại, với trọng trách là Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo quốc tế Lumbini, thầy Thích Huyền Diệu được Chính phủ Vương quốc Nepal quý trọng, ủng hộ như một nhân vật đã đóng góp công sức xây dựng, phát triển Lumbini thành một trung tâm văn hóa tâm linh quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Nepal trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân loại.

Thầy Thích Huyền Diệu cũng là nhà sư có công đầu trong việc thuyết phục phe du kích quân Maoist và chính phủ Nepal ngồi vào bàn đàm phán, ký kết hiệp ước hòa bình, chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài 10 năm, làm hơn 13.000  người thiệt mạng.  

Trong chuyến về thăm quê hương lần này, vẫn với phong cách giản dị nhưng minh triết, thầy Thích Huyền Diệu đã dành cho phóng viên cuộc trò chuyện cởi mở, với tâm thế của một nhà sư nhập thế…

– Khi xây dựng chùa Việt ở đất Phật, thầy muốn gửi gắm điều gì vào đó? 

–  Mặc dù phần lớn cuộc đời sinh sống ở nước ngoài, nhưng tâm trí tôi luôn hướng về quê cha đất tổ, tôi luôn mong ước có cơ duyên làm được điều gì tốt cho đất nước, để nhớ công ơn cha mẹ, thầy tổ và bạn bè; để tri ân đất nước mà tôi đã được sinh ra, tri ân những anh hùng dân tộc, những người đã hy sinh xương máu để gầy dựng đất nước Việt Nam như ngày hôm nay. Xây chùa cũng là xây cầu nối để gắn kết kiều bào Việt Nam với quê hương đất nước và góp phần tạo dựng hình ảnh Việt Nam tại quê hương linh thiêng của Phật giáo thế giới.

Bây giờ quý vị đi đến Nepal, nói là người Việt Nam thì từ Chính phủ đến dân chúng ai cũng niềm nở đón chào. Bởi người Việt Nam mình đã cứu được thánh địa từ chỗ hoang tàn, trở thành trung tâm văn hóa tâm linh quốc tế như hôm nay.

– Chùa Việt Nam tại Lumbini có những khác biệt gì so với chùa của các nước, thưa thầy?
 
Tôi luôn hướng về quê cha đất tổ, tôi luôn mong ước có cơ duyên làm được điều gì tốt cho đất nước, để nhớ công ơn cha mẹ, thầy tổ và bạn bè; để tri ân đất nước mà tôi đã được sinh ra, tri ân những anh hùng dân tộc, những người đã hy sinh xương máu để gầy dựng đất nước Việt Nam như ngày hôm nay.
 
Xây chùa cũng là xây cầu nối để gắn kết kiều bào Việt Nam với quê hương đất nước và góp phần tạo dựng hình ảnh Việt Nam tại quê hương linh thiêng của Phật giáo thế giới…
– Quý vị là người Việt Nam thì có thể tự hào rằng, Việt Nam Phật Quốc Tự được xây dựng đầu tiên tại đất phật Lumbini. Chùa không rộng rãi như chùa một số nước, nhưng được nhiều phật tử nhận xét là cao và đẹp nhất, từ đây có thể nhìn thấy tất cả những chùa khác. Chính điện có 3 pho tượng bằng gỗ mít đưa từ Việt Nam sang. Gian trong có bàn thờ các bậc chân tu qua các thời đại; đối diện là gian thờ các anh hùng liệt sĩ mọi thời đã hy sinh vì tổ quốc.
 
Có người hỏi tôi sao chùa lại có bàn thờ liệt sĩ. Tôi nói đó là lòng tri ân. Không có những con người xả thân vì đất nước, thì đâu có một Việt Nam như ngày hôm nay. Cạnh chùa lại có cây cầu hình chữ S bắc trên một hồ nước hoa sen hoa súng. Từ chính điện trông xuống, quý vị cũng sẽ thấy ở góc trái có Chùa Một cột bề thế, nguyên bản ở Hà Nội… Nếu lạc bước vào đây, quý vị sẽ có cảm giác như ở quê hương mình. Đó là biểu tượng Việt Nam.
 
– Trong chuyến về nước lần này, thầy có những dự định gì?

–   Tôi về Việt Nam lần này cũng là sự tình cờ, trên đường đi dạy học. Tôi thấy điều gì tốt, làm được trong khả năng thì tôi làm. Tôi sẽ có các buổi nói chuyện với thầy cô, sinh viên ở Đại học An Giang, Đại học Cần Thơ và một số một số doanh nhân ở Sài Gòn. Tôi cũng chuẩn bị cho chuyến đi bộ dọc chiều dài đất nước, khởi hành từ Mũi Cà Mau ra tới cực Bắc tổ quốc để chào mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long. Chuyến đi này, tôi sẽ cầu nguyện hòa bình, an lạc cho Việt Nam và thế giới, đồng thời kêu gọi mọi người tham gia trồng chừng vài chục triệu cây xanh. Đó là cách để chúng ta làm trong lành hơn môi trường sống.

– Thầy đã dày công bảo vệ loài linh điểu hồng hạc khi chúng di trú đến Lumbini. Thầy cũng dành sự quan tâm đặc biệt cho việc bảo vệ môi trường ở nhiều nơi. Về Việt Nam lần này thầy có quan tâm đến việc này?

–  Môi trường Việt Nam trước đây rất tốt, nhưng bây giờ thì có cái chưa tốt, nhất là nguồn nước. Như tôi được biết là nước sông Thị Vải đã bị ô nhiễm. Cái gì thiên nhiên ban tặng mà chúng ta không biết gìn giữ, bảo vệ thì sẽ gặp họa. Nếu không bảo vệ, nhiều con sông tiếp theo sẽ bị ô nhiễm. Nguồn nước mà tắm không được, uống không được thì đó là những dòng sông chết. Tôi nghĩ rằng toàn dân phải tôn trọng môi sinh, và cần có những việc làm như: Không thải ra môi trường chất thải bằng plastic, vì chất này phải mấy trăm năm mới phân hủy; không được phá rừng, mà ngược lại, mỗi người nên trồng cây để không khí thêm trong lành…
 
Thầy Thích Huyền Diệu (bên trái) trong một hoạt động ủy lạo tại chùa Mai Sơn (An Giang).
 

– Sau Ấn Độ, Nepal, thầy sẽ tiếp tục xây chùa ở đâu nữa để đưa đạo phật Việt Nam, nói rộng ra là hình ảnh Việt Nam ra thế giới?
 
– Tôi mong muốn một ngày nào đó ở trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn sẽ có một ngôi chùa Việt Nam. Và không chỉ ở đó, mà khắp năm châu bốn bể, ở đâu cũng có những ngôi chùa mang tinh thần Việt Nam. Một ngôi chùa mọc lên, tức là một nhà tù sẽ mất đi. Tôi cũng tham lắm, có mơ ước rằng những người thợ đúc chuông Việt Nam sẽ đi khắp nơi để đúc chuông, làm cho tiếng chuông Việt Nam vang lên khắp năm châu bốn bể.

– Thầy từng nói: “Nếu không sinh ra ở Việt Nam, thì tôi không làm được những việc như ngày hôm nay. Tôi đã học và áp dụng được phần triết học Việt Nam, tinh thần Việt Nam”. Thầy có thể chia sẻ những bí quyết giúp thầy đã thành công trên con đường tu học và nhập thế?

–  Tôi may mắn được tiếp thu tinh thần triết học Việt Nam từ người thầy Hoằng Nhơn ở chùa Mai Sơn, Tịnh Biên (An Giang). Triết học Việt Nam có 3 điều cơ bản: Thành tâm, tri ân và thành thật. Trong suốt hành trình của cuộc đời, người nào vận dụng được ba cái đó thì làm bất cứ chuyện gì cũng sẽ thành công.

– Trân trọng cảm ơn thầy đã dành thời gian cho cuộc trò chuyện này.