Trang chủ Thời đại Phật giáo có thể đóng góp gì cho Minh triết Việt (phần...

Phật giáo có thể đóng góp gì cho Minh triết Việt (phần 2)

74

Trở về với thực trạng Phật giáo hiện nay


Các giá trị minh triết của Phật học vừa lược dẫn đã tạo nên nội lực cũng như bản sắc minh triết phương Đông; nó cộng cư, hỗn dung với Khổng Lão, với minh triết Việt một cách âm thầm, vô danh, khó nhìn ra chân tướng.


Nếu xã hội, văn hóa bản sắc của dân tộc bị biến động, xáo trộn thì Phật giáo cũng y như thế. Những cơn lốc bão cuồng của vật chất đang thổi xoáy vào các giá trị tinh thần thiêng liêng! Bản chất trong lành, thanh tịnh, dị giản của đạo Phật – nơi này và nơi kia đã và đang bị đe dọa, xâm hại.


Đâu đó trên báo chí, trong vài cuộc hội nghị, diễn đàn – người ta sợ Phật giáo bị tụt hậu, lạc hậu… nên đã cổ súy, vận động, rằng là Phật giáo cần phải hiện đại hóa, cần phải trang bị kiến thức khoa học, cần phải kiến lập nhiều trường đại học, cần phải mở thêm những phân khoa chuyên ngành, cần phải phổ cập giáo pháp căn bản trên các mạng thông tin đại chúng, cần phải cải cách triết lý giáo dục thế nào để bắt kịp với trào lưu tiên tiến… cần phải lập các trang Web điện tử… cần phải đi vào điện ảnh… cần phải đi vào cuộc đời bằng đủ mọi loại công nghệ! Cần phải, cần phải và cần phải…vân vân và vân vân…


Những thao thức, trăn trở, nhiệt tình như thế thật đáng trân trọng! Tuy nhiên, xin các bậc thức giả, trí giả giáo dục Phật học hãy thận trọng, hãy dè chừng. Phải phân định cho rạch ròi cái gì thuộc hiện tượng, cái gì thuộc bản chất; cái gì là tinh lõi, cốt yếu, cái gì là vỏ ngoài, là ngành ngọn! Cái vỏ ngoài, cái ngành ngọn, cái hiện tượng… quả thật là thay đổi được vì nó là cái tùy duyên (triết lý); nhưng cái cốt lõi, tinh yếu, cái bản chất thì không thể thay đổi, hiện đại hóa được – vì nó là cái bất biến (minh triết), ở ngoài quy định, phạm trù, vượt thời gian và không gian.


Khoa học càng phát triển thì dường như càng chứng thực lời dạy của đức Phật cách đây gần ba ngàn năm là đúng đắn. Nói cách khác, cái thấy biết của ngài đã đi trước các nhà học giả, các tư tưởng gia, triết gia và các nhà khoa học hiện đại.


Kể từ thời cổ đại Hy Lạp, các triết gia lớn họ đã nói những gì? Rải rác đâu đó, người ta đã trích dẫn những câu đã trở thành phổ biến: “Không ai có thể tắm hai lần trên dòng sông” (Héraclite). Hoặc là: “Tôi tin vào thuyết chuyển sinh linh hồn” (Pythagore). Vào thế kỷ 17, thì, “Chúng ta phải biết quan sát mọi hiện tượng với sự hoài nghi hợp lý” (Descartes). Hay: “Mọi hình thức tồn tại đều tạm bợ, nhất thời” (Spinoza). “Cái được gọi là nguyên tử chỉ là một giả định của siêu hình học” (Berkeley). Gần hơn: “Phần tâm linh của con người là những trạng thái tinh thần luôn luôn biến chuyển” (Hume). “Toàn thể hiện tượng là sự đang trở thành” (Hegel). “Thế gian như ý chí và tư tưởng – cùng những đau khổ và những nguyên nhân của nó” (Schopenhauer). “Tôi chủ trương thuyết vô thường và những giá trị của trực giác” (Henri Bergson). “Luồng tâm như một dòng nước và tôi phủ nhận một linh hồn trường cửu” (William James)….


Tất cả những thấy biết của các triết gia, các nhà tư tưởng ấy, tuy là vĩ đại đấy, nhưng đối với đức Phật, ngài không những đã thức tri, mà còn tuệ tri, giác tri và minh tri chúng nữa! Có nhà Phật học nghiêm túc hơn, thì nói: “Phật giáo không phải là một tôn giáo – vì nó không có thượng đế, không có hệ thống tín ngưỡng tôn sùng, lễ bái thần linh siêu nhiên” (Rhys Davids).


Nhà nghiên cứu Phật học thâm uyên này đã dành trọn đời mình (cả hai vợ chồng) để lập ra Hội Nghiên Cứu Pāḷi và phiên dịch kinh điển Phật giáo, lại còn xác tín cho mình: “Dầu là Phật tử hay không Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới; và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo nào có cái gì cao đẹp và toàn vẹn hơn Bát chánh đạo của đức Phật. Bây giờ, tôi chỉ có mỗi một việc làm duy nhất là thu xếp đời sống mình cho phù hợp với con đường ấy!”[1]


Và, gần đây nhất, một thiên tài khoa học vĩ đại nhất, Albert Einstein, người Mỹ, gốc Do Thái, sinh tại Đức, được giải thưởng Nobel vật lý năm 1921, đã trân trọng nói về Phật giáo, được trích dẫn khá nhiều nơi, tôi xin được ghi lại hầu như nguyên văn: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu. Nó phải ly thoát khỏi một thượng-đế-cá-thể và một nền thần học. Tôn giáo này phải bao gồm cả nhiên giới và tâm giới; và phải dựa vào một ý thức tín ngưỡng phát xuất từ kinh nghiệm của cả vật chất lẫn tinh thần – ở trong một thế hợp nhất có ý nghĩa. Phật giáo chính là tôn giáo có khả năng trả lời được mấy yêu sách dẫn lược. Nếu có một tôn giáo nào ứng phó được với các nhu cầu của khoa học hiện đại, thì đó chính là Phật giáo. Phật giáo không cần phải tu chỉnh, cải sửa những quan điểm của mình mà theo khoa học – vì Phật giáo không chỉ bao hàm khoa học mà nó còn vượt xa, vượt quá khoa học nữa!


(Phỏng dịch từ đoạn văn: The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend a personal god and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sens arising from the experience of all things, natural and spiritual and a meaningful unity. Buddhism answer this description… It there is any religion that would cope with modern scientific need, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to surrender its views to science, because it embraces science as well as goes beyond science).


Sở dĩ chúng tôi trích dẫn dài dòng như vậy – là chỉ muốn nói đến mấy điều. Về phương diện tư tưởng, chưa có triết gia, hiền triết nào có thể vượt qua giáo pháp duyên sinh vô ngã tính của đức Phật. Họ chỉ thấy vài điểm manh mún, rời rạc của thực tại chứ chưa ai nhìn ra được toàn bộ thực tại.


Thứ nữa, khoa học vô thần mà Phật giáo cũng vô thần; nhưng khoa học đang đi trên lưỡi dao cạo, có thể dẫn nhân loại đến chỗ hư vô, hoại diệt, đoạn diệt… Còn vô thần của Phật giáo – phủ nhận thượng đế và linh hồn trường cửu – là để nhận trách nhiệm tự bản thân mình, tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình; vui khổ, thành bại, được mất, hơn thua, giàu nghèo, sang hèn đều tùy thuộc bàn tay nắm của chính mình!


Cao hơn tất cả, cao hơn các bậc giáo chủ toàn cầu – là đạo Phật đã nhận chân khổ đế và thực hiện đạo đế để giải thoát tất thảy khổ đau, phiền não trên cuộc đời – thì chẳng tôn giáo nào có được. Có nhiều kẻ học Tây, sùng mộ hoặc cuồng tín khoa học, tuyên bố rằng: Khoa học là chiếc đũa thần vạn năng, khả dĩ thỏa mãn mọi khát vọng cũng như mọi giấc mơ cho con người; chỉ có nó mới đáng tin cậy vì nó tìm kiếm chân lý bằng trí tuệ khách quan và trung thực – hơn là các tôn giáo và triết học! Điều ấy hoàn toàn đúng.


Nhưng, xin thưa, nếu so sánh với các tôn giáo và các triết học thì được, còn Phật giáo thì không thể! Vì rằng, khoa học đi tìm kiếm sự thực bằng phán đoán, suy luận, giả thiết, trắc lường, kiểm chứng rồi mới đi đến kết luận. Dù có khách quan và trung thực cách mấy thì đến một lúc nào đó cũng bị chân lý đi sau vượt qua! Tại sao vậy?


Vì đấy là sự tìm kiếm của võ não, của lý trí khiếm khuyết và bất toàn! Còn đức Phật tìm kiếm sự thực bằng trực giác, trực thị, bằng tuệ giác của tâm linh tu chứng, thực nghiệm! Vậy, chân lý của khoa học bao giờ cũng cục bộ, giới hạn, đằng sau lưng nó là những đáp số trải dài của những đúng, sai, đúng, sai… cho đến vô cực! 


Như thế, rõ ràng là về phương diện cốt lõi, tinh tủy, căn để, bản chất – Phật giáo không cần phải thay đổi gì cả! Vấn đề là chúng ta có tự thu xếp đời mình theo đúng với con đường mà đức Phật chỉ dạy – như Rhys Davids đã nói hay không? Ở Việt Nam hiện nay, các sinh hoạt bên ngoài của Phật giáo, các hiện tượng tùy duyên ấy có phản ánh đúng bản chất, đúng cái bất biến của đạo Phật hay không?


Nói cách khác, những người học Phật, tu Phật thời nay có nhìn thấy các giá trị minh triết của đạo Phật hay không – hay chỉ thấy chùa to, Phật lớn, tụng kinh, lễ bái, thiện nam tín nữ đông đúc… thì bảo rằng Phật giáo đang phát triển, đang tăng thịnh?


Và giả dụ như kinh sách đầy tràn đến hang cùng ngõ hẽm với những lời lẽ cao minh, bàn huyền, luận diệu… thì có nói lên được cái minh triết của đạo Phật hay không?


Giáo dục Phật giáo cũng như những sinh hoạt khác – chúng ta cũng cần phải khảo sát trong tinh thần dẫn lược – tìm cho ra những  giá trị minh triết – cái hồn sống, cái đạo sống, cái nuôi dưỡng nội lực tâm linh – mới mong đứng vững trước thời đại; không những là những phù phiếm, hào nhoáng, xa hoa của vật chất – mà còn đứng vững trước những tha hóa, những hãnh tiến, những ngu si, những tự mãn, đủ mọi nhãn hiệu, đủ mọi nhân danh tôn quý, nhưng là những phiên bản trá hình của bản ngã, của danh lợi và địa vị!


Phật giáo có mặt ở Việt Nam vào thời đại Hùng Vương, đấy là kết luận của nhiều sử gia đáng tin cậy. Giáo sư sử gia Lê Mạnh Thát lại còn đi xa hơn với những phát kiến rất mới mẻ với nhiều tư liệu dẫn chứng đáng cho chúng ta quan tâm.


Theo đó, truyền thuyết trăm trứng trăm con của con cháu Lạc Hồng – huyền thoại dân tộc – có hơi hám, có duyên sanh, có liên hệ đến câu chuyện túc sanh số 23 trong Lục độ tập kinh. Sự thật ấy – và nhiều phát kiến khác nữa về lịch sử của dân tộc – có lẽ còn cần nhiều cuộc hội thảo nghiêm túc, những chứng lý có xương có thịt hơn.


Tuy nhiên, về sử kiện Phật giáo Việt Nam đã có mặt từ thời Hùng Vương thì khá thuyết phục: Là sau năm 43 TL, những nữ tướng thất trận của hai bà Trưng tìm đến những ngôi chùa quê xa xôi để ẩn tu thì hiện còn di tích lịch sử.


Vậy, những sử liệu nói rằng, Phật giáo nước ta từ Trung Quốc truyền xuống đã tỏ ra không thuyết phục được ai nữa. Mà phải nói ngược lại, thiền sư Khương Tăng Hội đã y bát, chống gậy Bắc du, đến đất Ngô (thời Tam Quốc) truyền bá Phật học, tỏ uy lực và uy linh của xá-lợi (21 ngày cầu nguyện để xá-lợi Phật phát sanh trong bát) để thâu phục Tôn Quyền; sau đó cho Tôn Hạo thọ trì quy giới là đã chứng minh được sự thật ấy! Thời Hán, Trung Quốc chưa có Phật giáo mà ở Luy Lâu đã hình thành một trung tâm Phật giáo lớn, đã có 15 bộ kinh, 20 ngôi chùa và 500 tăng lữ!


Cũng từ bộ sử nghiên cứu của ông – Lịch sử Phật giáo Việt Nam – đã cho ta biết rằng, Phật giáo đã gắn liền với dân tộc từ những thế kỷ trước TL; và văn hóa của Phật giáo đã là những tố chất tạo nên một phần bản sắc của văn hóa dân tộc. Các bộ kinh có mặt vào thời kỳ này như Lục độ tập kinh, Tạp thí dụ kinh, Cựu tạp thí dụ kinh – ai đã xem qua đều thấy rõ văn hóa Phật giáo và văn hóa Lạc Việt đã cộng hưởng sức mạnh để đẩy lùi và để thoát ly văn hóa Trung Quốc. Một số truyện trong các bộ kinh trên rõ là đã được viết trên đất Việt, ngôn ngữ Việt (Xem LSPGVN).


Có truyện đề cập đến thành tín, hiếu nghĩa… mang nội dung Phật giáo, hoàn toàn khác với ngũ thường của Khổng. Có nơi lại nói, phải lấy năm giới, mười lành làm quốc chính! Rồi suốt trong thời kỳ Bắc thuộc, lãnh đạo các phong trào vệ quốc đa phần là Phật tử, càng chứng minh thêm cho sự gắn bó thiết cốt của Phật giáo đối với dân tộc. Như Lý Nam Đế vừa lên ngôi đã cho lập chùa Khai Quốc – chứng tỏ Phật giáo đã cầm cờ tiên phuông mở nước! Như Lý Công Uẩn vừa dời đô về Thăng Long, chưa xây dựng cung điện, đã xuống chiếu cho làm 8 ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, trùng tu chùa quán các nơi, cho độ Tăng hơn nghìn người ở kinh sư! (Xem ĐVSKTT, NXB/ VHTT, 2003, trang 359).


Rồi khi xây dựng cung điện Thăng Long thì bên trong nội thành xây dựng chùa Ngự Hưng Thiên, ngoài thì có chùa Thắng Nghiêm; lần lượt sau đó là các chùa Vạn Tuế, Tứ Đại Thiên vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Quang, Thiên Đức, Chân Giáo…


Lê Văn Hưu, sử gia đời Trần đã phê phán khá gay gắt việc làm ấy của vua: “Là tiêu phí tiền của và sức dân vào công việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể” Còn nặng nề hơn: “Há chẳng phải là vét máu mủ của dân ư?” (Sđd).


Việc xây chùa, độ Tăng của vị vua đầu triều này, Lê Văn Hưu không hiểu; Ngô Thì Sĩ – trong Việt sử tiêu án – cũng không hiểu, khi viết: “Xét sử một đời vua Đại Hành thì chính sách học liệu khoa cử không nghe tới nhưng mệnh lệnh và thư từ đương thời như lá thư gởi xin nối ngôi thì lời nó uyển chuyển, đắc thể. Đến như nối vần bài thơ “Nga nga”, ca khúc tiễn sứ thần “Nguyễn Lang quy” – tình ý lanh lẹ, văn nhân cũng không thể làm hơn được, không biết học hành dồi mài ở đâu. Anh hùng cái thế ra đời luôn không thiếu người…”


Họ không hiểu rằng, từ thời Hùng Vương đến giờ, nhà chùa là những trung tâm văn hóa của dân tộc. Nó một lúc đảm nhiệm nhiều chức năng. Là trường học, không những dạy dỗ các thế hệ Tăng Ni có tài, có đức mà còn dạy dỗ cho con em trong vùng, trong làng, trong xóm. Là nơi diễn ra các lễ hội dân gian. Và nhất là nơi nuôi dưỡng một đời sống thuần từ, hiền thiện, đạo đức cá nhân, gia đình và xã hội. Lý Thái Tổ được giáo dưỡng từ nhỏ bởi Vạn Hạnh, Đa Bảo – dĩ nhiên, ông hiểu rõ điều đó hơn các sử gia Nho giáo. Đầu tư xây dựng chùa chiền, độ Tăng là cả một chiến lược giáo dục dài lâu. Khi giáo dục đã thiết lập được cơ sở vững chắc thì dân trí sẽ được nâng cao; dân trí được nâng cao, cải thiện thì các thế hệ kế thừa không lo gì thiếu nhân tài giúp dân, giúp nước. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia chỉ có thể tìm kiếm ở nguồn này!


Đây là giai đoạn tri thức Phật giáo lãnh đạo đất nước, và sau đó đã có một cuộc chuyển giao rất ngoạn mục: Từ thiền sư sang đức vua, triều đình, đến quý tộc, quan lại, sĩ tử…


Đến đời Trần thì các thiền sư đã không còn tham dự triều chính nữa, các ngài đã rút về tĩnh cư, tu tập nơi động vắng, hang sâu. Cũng từ đây, Phật giáo bắt đầu rời bỏ cung đình để đi vào các thôn ấp xa xôi; đấy là nhờ công đức của Trúc Lâm Yên Tử Sơ Tổ Điều Ngự Giác Hoàng!


Ông vua thiền sư thi sĩ này đã sống hạnh đầu-đà, khất thực, tam y nhất bát (thấy tượng Tam Tổ mặc y vai trái) đi khắp nhân gian khuyên mọi người phá bỏ những thờ tự mê tín như vật tổ và sinh thực khí (dâm từ). Ngài lại còn lặn lội sang Chiêm Thành, bang giao hòa hiếu, gã Huyền Trân cho Chế Mân để lấy hai châu Ô, Lý – là Thuận Hóa sau này. Và cũng từ đây, ca dao, tục ngữ, những lễ hội, những sinh hoạt dân gian đã in đậm dấu ấn của Phật giáo.


Nói cách khác, văn hóa tâm linh của đạo Phật đã hòa trộn vào các tín ngưỡng dân gian, đã thổi hồn, đã thắp sáng cho văn hóa dân tộc – đến đổi từ đầu kỷ nguyên, đức Phật không còn là đức Phật Gotama lịch sử nữa mà đã biến thành đức Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện! Phải chăng, trong tâm thức và ước mơ của dân gian, ông Phật ấy phải biết tạo ra mây mưa sấm chớp – đem lại sự tươi tốt mùa màng – đặc biệt của cư dân văn minh lúa nước!


Dầu các sử gia Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu có cố tình chiếm địa vị độc tôn cho Nho giáo, đưa ra những nhận xét, những bình luận phiến diện, một chiều – theo công thức áp đặt, ngụy biện, thiếu cơ sở luận lý: A (Phật giáo) sai vì A không giống B (Nho giáo) – thì Phật giáo cũng cứ vẫn đi vào lòng người, lòng xã hội như là hơi thở, là sự sống vậy.


Trong kho tàng văn hiến – cái tạo ra bản sắc văn hóa dân tộc – thì Phật giáo đã đan xen, trộn lẫn, hòa quyện, thấm đẫm vào bên trong, thật khó phân chia tách bạch ra được. Và nó đã trở thành tư duy, tình cảm, nếp nghĩ, nếp sống có nghĩa, có tình với các giá trị đức lý, tạo nội lực thăng hoa tâm linh ngàn đời cho con cháu Lạc Hồng! Và đấy chính là minh triết: Minh triết Phật và minh triết Việt.


Kết quả ấy là do nhờ sự hiện hữu của các ngôi chùa ở tất cả mọi miền, mọi thôn làng trên khắp đất nước. Ngôi chùa, mái chùa, tiếng chuông chùa, hội chùa, sân chùa, ao chùa, bến chùa… là những hình ảnh và biểu tượng thiêng liêng, ấm cúng, êm đềm, gần gũi… cho con dân đất Việt mấy nghìn năm nay. Nó dường như là nguồn cội, là tổ ấm, là mọi hướng về của nhiều kẻ ly hương – ly hương văn hóa hoặc ly hương địa lý – vì lý do này hay lý do khác!


Người nuôi dưỡng hồn sống minh triết ấy, có lẽ đa phần là do những tu sĩ âm thầm, vô danh, sống đời giản dị, thuần phác – nhưng là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho dân làng trải qua mọi biến cố can qua, thăng trầm… của nhiều hoàn cảnh hoặc nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Họ, những thế hệ kế thừa – kế thừa nền minh triết Phật và minh triết Việt – đủ mọi trình độ, kiến thức quảng bác cũng có, bình bình bực trung cũng có, hoặc chỉ bỏm bẻm dăm câu bảy chữ có lẽ lại khá nhiều.


Họ cùng ăn, cùng ở, cùng vui khổ, chan hòa tình cảm với mọi người. Tùy khả năng, hạnh nguyện, sở tri, sở hành… mà họ khuyên mọi người làm lành, lánh dữ; sống với nhau phải đặt căn bản trên sự hiểu biết, yêu thương; phải biết tha thứ, đùm bọc, rộng lượng, sẻ chia cơm áo lúc khó khăn mất mùa, an ủi tinh thần lúc tai ương, hoạn nạn!


Tại những ngôi làng ấy, các vị tu sĩ (có cả những ông đồ Nho) đã làm thầy giáo dạy chữ, dạy đạo lý cho con em mà không cần lương hướng. Họ làm thầy thuốc chữa bệnh cho mọi người mà không nhận tiền bạc. Vị thầy tu chùa làng – do đạo đức và uy tín của mình, đã làm người hòa giải mọi cuộc bất hòa giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái trong các gia đình tương thuộc.


Đôi khi, họ còn làm những vị quan tòa bất đắc dĩ – do được dân làng kính trọng, tin yêu – để phân xử các vụ đụng chạm quyền lợi, tranh chấp phải trái về đất đai, rào giậu, trâu bò, heo dê, gà vịt, chó mèo … gì đó nữa! Họ còn coi giúp việc kiết hung, họa phúc, âm trạch, dương trạch cùng mọi việc liên hệ kỵ giỗ, tang tế… cho bà con mà không cần một đền đáp nào. 


Tuy nhiên, việc làm chùa, tu sửa già-lam, hoa quả hương đăng, gạo khoai rau trái… người dân cảm thấy mình phải có bổn phận đóng góp tài lực; và họ coi đấy là niềm vui, là công đức, là nghĩa vụ thiêng liêng!


Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học – nên nó không cần các quy mô đại học với hằng chục chuyên ngành phức tạp, rối rắm. Nó không cần những tri thức, những kiến thức hàn lâm, kinh viện hoặc cả một kho tàng văn chương bác học. Và nó cũng không cần những thuật ngữ Phật học cao siêu, uyên bác… mà nếu không tiêu hóa được – thì chỉ còn là những xác chữ, võ chữ khô rỗng, đã mòn trơ linh hồn và sự sống!


Giáo dục Phật giáo, từ buổi sơ nguyên là như vậy; đến thời Lý Trần, nó lại càng rực rỡ hơn nữa – vì nó đã thực sự bén rễ dày sâu trong tâm thức Việt, đã trở thành các giá trị nhân bản, nhân văn; đã trở thành lẽ sống, đạo sống, đã trở thành bản sắc đặc thù của văn hóa Việt. Thành quả ấy – thì cả một ngàn trường đại học cũng không làm được!


Nó không nói vận dụng sáng tạo. Nó không nói bất biến, tùy duyên. Nó không vạch ra sách lược với các mục tiêu giáo dục cao đại và khoa trương! Nó không nói bồ-tát, đại thừa, tiểu thừa, đại nguyện, sứ mạng, lợi lạc, vị tha… Nó không đưa ra những khái niệm đao to búa lớn như đại hùng, đại lực, đại từ bi…


Và ngay cả những khái niệm về giác ngộ, giải thoát, trí tuệ, đức tin, lục hòa, tứ nhiếp… nó cũng chẳng đề cập! Khi mà minh triết Phật đã hòa nhập với minh triết Việt – thì nó chỉ sống cùng, sống chung với mọi người bằng tấm lòng, bằng nụ cười, bằng tình thương và sự chân thật. Và khi mà hồn Phật và hồn Việt đã hòa lẫn thì nó đi vào ca dao, tục ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng dân gian…


Nó không chỉ đơn giản “Đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt” mà còn thấm đẫm vào hồn Việt. Ví dụ một vài. Hòa với Khổng, Đạo giáo: “Ai nặn nên cái núi Nhân, trông xa như Phật, trông gần như Tiên”. Với tín ngưỡng dân gian: “Ai ơi chớ có ăn lời, Bụt kia có mắt, ông Trời có tai”. Đi vào đạo hiếu: “Cha già là Phật Thích-ca, mẹ già đích thị Phật bà Quan Âm”. Trong tình cảm xóm làng: “Chiều chiều nhớ xóm, nhớ làng, nhớ gốc đa, nhớ chùa làng, nhớ em!”. Đi vào tình cảm trai gái: “Lên chùa lạy Phật Thích-ca, lạy ông Tam Thế, lạy cha Ngọc Hoàng; bước ra kết nghĩa cùng nàng, túi anh có nhẫn cho nàng đeo tay!”. Đi vào đạo lý: “Nghĩa nhân Trời, Phật thương ban, ai hành ác nghiệp bạo tàn nát thây”; hoặc: “Quả báo ăn cháo gãy răng, ăn cơm gãy đũa, xĩa răng gãy chày”. Với niềm tin vững chắc của nhân dân: “Giặc đi thì giặc lại về, giặc đến bồ-đề thì giặc phải tan!”; hoặc: “Còn trời còn nước còn non; còn chùa còn Phật, tôi còn tụng kinh!” (Trích rải rác trong Ca dao, tục ngữ PGVN của Lệ Như Thích Trung Hậu, nxb TPHCM năm 2002).


Tóm lại, Phật giáo đã đồng hành cùng với dân tộc trên dưới hai ngàn năm, đã đi được vào tâm thức Việt và hồn Việt như thế, dẫu uyên nguyên giáo pháp có nhạt đi, có mờ đi – nhưng tinh chất minh triết vẫn tiềm tàng trong mọi hoạt dụng của nhân sinh, tạo nên một nguồn lực sung mãn khả dĩ đánh bạt ra bên ngoài những loại văn hóa lai căng, pha tạp – để giữ nguyên vẹn cái gì là của chính mình.


Nhưng rất tiếc là bây giờ, nền giáo dục minh triết, đậm chất trí tuệ dân gian ấy bị mai một dần dần, dương như là mất hẳn. (Mô hình giáo dục dân gian này đang còn tồn tại ở Myanmar, Thailand, Campuchia và Lào).


Cũng như phương Tây, minh triết phương Đông cũng đã đọa xuống triết học, đạo đức học, tâm lý học dung tục. Dân tộc Việt cũng thế, và Phật giáo Việt cũng thế. Ai cũng chạy theo khoa học, phát triển chiêu thức mà không cần biết nội lực mình như thế nào? Hay không cần thiết phải có nội lực?


Thế giới văn minh tiêu dùng của phương Tây đã đẩy nhân loại đến thảm họa tự sát tập thể – tự sát tập thể trên các lãnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, thương trường, chứng khoán, xã hội, môi trường… nhất là các giá trị nhân văn. Dẫu họ đã cố gắng nhập siêu đồng loạt các giá trị văn hóa, giá trị tâm linh từ phương Đông – nhưng cái bệnh béo phì vật chất đôi nơi đã trở thành nan y, nơi đã bảo hòa vô cảm, nơi đã tỏ ra bất lực trước các nếp gấp – thành nề – của tư duy và cảm tính! Phương Đông còn nhập siêu ồ ạt hơn nữa những rác thải khoa học, điện ảnh, văn học, nghệ thuật; rác thải nhu cầu, tiện nghi; rác thải độc chất sông nước và cả tinh thần – mà người ta gọi là hội nhập đa dạng văn hóa toàn cầu!


Đạo Phật Việt Nam hiện nay cũng đang nỗ lực chạy theo phương Tây nên cũng mang căn bệnh chung của thời đại. Nơi này hô hào, cổ súy xã hội hóa. Nơi kia nghiêm túc bàn đến tính chuyên môn, lý thuyết, triết lý giáo dục, phân tầng ngũ thừa… Nơi nọ lập ra phương hướng giáo dục, chương trình đào tạo… Rồi báo cáo khóa này bao nhiêu tiến sĩ, cao học, thạc sĩ. Và khóa sau bao giờ cũng cao hơn khóa trước! Rồi họ xem đấy là thành quả giáo dục!


Tuy nhiên, nếu cả ngàn học vị tiến sĩ, cả ngàn thành quả ấy cộng lại – có phải là thành tựu được minh triết Phật không – thì không nghe ai nói tới! Đức Phật của chúng ta chưa hề phong cho ai học vị tiến sĩ – lại còn gọi vị giải thoát là bậc vô học kia mà!  Ngài cũng chưa bao giờ lấy kiến văn, sở tri làm thước đo nhân cách con người; ngài còn xem đấy là người ngu nữa: “Người ngu sa đọa tâm hồn, trí thức hái lượm, cúi luồn công danh, đầu to bửa nát tan tành, hoa hương úa rã cây cành thảm thương. Trong sự sụp đổ của mình, hái thâu kiến thức, góp kinh nghiệm đời, người ngu đâu biết than ôi! Chính chung bửa nát bể hai cái đầu! (PC. 72). Mà ngược lại: “Chữ câu ngàn vạn ích gì, trăm kinh nói mãi lắm khi loạn mù, một câu có ích, cho dù, nghe xong tịnh lạc, an như đời đời” (PC.101); hoặc: “Nghe nhiều, học rộng chương văn, xứng danh bậc trí giữa tăng đoàn này, vô sân, vô úy mới hay, mới là bác học, mới tày đa văn” (PC. 258).


Ngoài căn bệnh phát triển lý trí chiêu thức mà không đề cập đến nội lực minh triết – PGVN chúng ta còn mang một căn bệnh trầm trọng khác nữa, đúng như TS. Tamas Agoca đã nêu trong chuyên đề của mình hôm hội thảo Vesak 2008: “… dường như có sự mâu thuẫn giữa cứu cánh tối hậu của GDPG, đó là để đạt được sự tự do từ ý niệm sai lầm về một tự ngã thường hằng và mục đích của giáo dục hiện đại là để tăng cường và củng cố sự nhận thức sai lầm về bản thể của chính mình. Làm thế nào có thể giải quyết sự mâu thuẫn này trong bối cảnh của GDPG hiện nay, và trong tinh thần liên tục và tiến bộ?” (Trích GDPG: Kế thừa và phát triển – nxb Tôn giáo, 2008, trang 9).


Cái gọi là tự ngã thường hằng ấy, bản thể của chính mình ấy – chúng ta bị va vấp khắp mọi nơi khắp mọi chỗ. Cái ta ấy nó đi liền với mọi chấp thủ bản ngã, thể hiện bản ngã ở trên mọi loại hình sinh hoạt, sinh ra đố kỵ, tranh chấp, phe nhóm – do đặc quyền, đặc lợi mà quay lưng với di huấn của đức Phật. Chúng ta luôn luôn bị sự đánh lừa của bản ngã, không chỉ là sai lầm do vô minh mà còn đưa chúng ta đến biên độ giới hạn, cục bộ… làm cho minh triết Phật bị rào bít lại hoặc rơi xuống các phạm trù dung tục đời thường.


Nói cách khác là đạo Phật đã bị thế tục hóa, rơi xuống tục đế với đủ mọi nhân danh cao đẹp như vô ngã, vị tha, lợi lạc quần sanh… xem ra chỉ còn là khẩu hiệu khô rỗng, thiếu cái thực ở bên trong – nói cách khác là đã đánh mất linh hồn minh triết Phật vậy. Một vài dẫn chứng cụ thể là gần đây, người ta đã phá bỏ những ngôi già-lam cổ xưa mang phong cách Á Đông, đậm chất Thiền và chất Việt – để kiến tạo những ngôi chùa to lớn, hào nhoáng, nguy nga – nhưng thiếu văn hóa bản sắc, khô kiệt tâm linh, nghèo nghệ thuật, kiến trúc chắp vá Nhật Tàu… trông vô hồn, vô cảm.


Rồi đức Phật vàng son, ngự trị quá cao, dường như cao quá tầm tay với của nhân sinh, biến ngài thành một vị thần linh, một vị thượng đế như các tôn giáo hữu thần! Phổ biến rất nhiều nơi, do nghèo nàn tâm linh, thiếu nội dung tu tập, người ta chỉ cổ súy hình thức lễ nghi, phụng túng, đại tế, trung tế, tiểu tế… để cho quần chúng đến lễ bái, van vái, cầu xin; nghĩa là phát triển mê tín dị đoan để bòn rút lợi lộc, bạc tiền bất chánh – hơn là hướng dẫn cho mọi người một đời sống trong lành, hiền thiện.


Thảm họa khác nữa là giới tu sĩ cũng chạy chức chạy quyền, tranh cho kỳ được các chức vụ để được lãnh đạo nơi này và nơi kia, được mau lên thượng tọa, hòa thượng trong lúc tuổi đời tuổi đạo còn non choẹt, và quan trọng nhất là thiếu giới luật và đạo hạnh (có một số vị trong hàng chức sắc lại có vợ có con – có vợ có con thì làm sao lãnh đạo Tăng-già thanh tịnh?!!!) Đây chính là sư tử trùng sư tử nhục – chỉ có trùng sư tử mới ăn được thịt sư tử! Than ôi!


Đi vào thực trạng một chút nữa


Nếu minh triết Trung Quốc bị đọa xuống triết học kể từ thời Tống Nho – thì minh triết Việt cũng tương tự vậy; nhưng do nhờ nội lực tâm linh của các vị thiền sư thời Lý, Trần đã truyền sức mạnh vô ý, vô tâm, vô tất, vô cố, vô chấp, vô dục, vô úy, vô vi, vô ngã… tinh chất của minh triết Phật – cho các đời vua; và thành tựu cao nhất được nói đến chính là vua Trần Nhân Tông Trúc Lâm Yên Tử – người đã nỗ lực ly thoát văn hóa Tàu, ly thoát hoặc sử dụng có chọn lọc thiền Trung Quốc; lấy tinh chất uyên nguyên của Phật hòa dung với bản sắc văn hóa Việt để trở lại với đầu nguồn minh triết – nên đã đưa dân tộc cũng như Phật giáo đến chỗ cực thịnh. Cực thịnh không đơn thuần là vật chất áo cơm thịnh mãn; mà nó còn là đời sống văn hóa cao đẹp cùng với thế giới tâm linh mỹ toàn nữa.


Việt Nam hiện nay có thể khát khao văn minh, tiến bộ, điều ấy đúng vì chúng ta đang lạc hậu về nhiều mặt so với các nước láng giềng – như kinh tế, khoa học, xã hội… nhưng đừng quên rằng, đời sống văn hóa và các giá trị tâm linh mới chính là nền tảng minh triết. Ngoài lãnh vực vật chất ra, chúng ta phải kế thừa và phát triển cho bằng được cái hay, cái đẹp, cái đã trở thành xương cốt, máu thịt, hơi thở; cái đã trở thành đạo sống, sự sống hài hòa Phật Việt mấy ngàn năm qua như đã lược dẫn.


Nói cách khác, GDP chỉ mới là điều kiện cần, nhưng nếu muốn điều kiện đủ thì phải có thêm đời sống văn hóa cao đẹp cùng với đời sống tâm linh thanh bình và an ổn.


Có lẽ, nếu biết vận dụng đúng đắn nguyên lý “tùy duyên bất biến” thì đạo Phật bao giờ cũng giữ gìn được cái tinh yếu, cốt lõi, bản chất uyên nguyên (khế lý) như đã từng tồn tại trong lịch sử qua nhân cách, phong thái xuất xử của các vị thiền sư Lý, Trần; đồng thời, vận dụng sáng tạo cho thích hợp với hoàn cảnh, thời đại, con người (khế cơ).


Nguyên lý ấy bao giờ cũng đúng. Tuy nhiên, trước thực trạng văn minh vật chất tăng tốc đến chóng mặt, cái cỗ xe lý tính đang hăm hở lao nhanh không có phanh hãm – mọi giá trị nền tảng của minh triết Việt và minh triết Phật đang bị lung lay, xâm hại – thì việc bảo vệ gìn giữ xem ra quan trọng hơn phát triển rất nhiều.


Bảo vệ, giữ gìn được bản sắc của mình là quý lắm rồi! Bảo vệ, giữ gìn lại là vấn đề con người – nhân văn và nhân bản. Giáo dục phải đặt nặng trọng tâm là con người! Đường hướng, chính sách, mục tiêu dầu tốt nhưng nếu không có con người tốt thì rõ là xây nền lý tưởng giữa trống không.


Con người hỏng, hư, xấu – không có đạo đức văn hóa, không có một đời sống tâm linh lành mạnh – thì ở cương vị nào cũng làm cho nơi ấy tan nát, hủ bại! Con người hỏng, hư, xấu ấy mà được giao cho chức vị, quyền hành, lãnh đạo nơi này và nơi kia thì tạo thêm thảm nạn cho đất nước. Con người tốt, hiền mà ít học, dẫu không hay lắm, nhưng cũng không đến nỗi làm những chuyện đồi phế, thương luân bại lý.


Ngọn gió độc của văn minh phương Tây đã len lỏi khắp mọi nơi mọi chỗ, ở đâu cũng thấy hư vô, bế tắc, dục vọng và vô cảm. Ngay lúc này đây, minh triết Phật và minh triết Việt phải đứng dậy, cùng bắt tay bước đi, phải dẫn đầu mọi sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật, kinh tế, xã hội; phải dẫn đầu mọi tiêu chí và mọi thành quả. Còn nghe ai nói đến việc phát triển dựa theo tính đa năng đa hiệu của khoa học thì chúng ta phải cẩn thận, dè chừng! Sự hội nhập đa văn hóa cũng vậy.


Hãy cẩn trọng xem thử nó có phá vỡ an toàn môi sinh, nó có rải độc tinh thần sinh thái, nó có ung hoại tâm hồn và có vấy nhiễm văn hóa bản sắc? Còn nữa, phát triển là phải tùy duyên! Tùy duyên – có nghĩa dựa theo định luật duyên khởi để hành sự (vô vi nhi vô bất vi – duy tác) chứ đừng khởi tâm hữu vi – bao giờ cũng có tư ý, tư dục điều động – sẽ tạo thêm hỗn loạn cho cuộc đời. Và như thế, ai làm được gì đó thì cứ làm – tùy duyên khởi, khả năng, căn cơ, trình độ, phương tiện…


Ai thấy mình vô dụng, thấy mình không làm được gì thì phải biết nhường chỗ cho người có tài, có đức. Riêng giới tu sĩ thì nên rút về nơi thâm sơn cùng cốc để tu tập định, tuệ thì thật là đại hạnh cho Phật giáo. Giữ gìn và nuôi dưỡng minh triết Phật, minh triết Việt ngay lúc này cũng chính là thái độ minh triết! Lại nữa, căn bản trí bao giờ cũng hướng dẫn cho phương tiện trí. Chưa biết bơi mà muốn nhảy xuống sông cứu người chết đuối là thiểu trí – chứ không ai khen ngợi là đại bi đâu! Có nội công mới phát triển chiêu thức – nguyên lý võ học chân chính cũng nói như thế. Có sức mạnh văn hóa và tâm linh (minh triết Việt và minh triết Phật) – mới phát triển đồng bộ và đa dạng tư duy lý tính trong mọi chuyên ngành khoa học, kinh tế, xã hội… để đưa đất nước đi lên, để nâng con người lên với những giá trị tót vời của chân nghĩa thanh bình và hạnh phúc, chứ không phải cúi xuống cho vừa tầm với tâm địa thường phàm của  cõi đời ác trược!


Để kết luận,


Thế gian thường tri không đi đôi với hành hoặc tri không cần hành. Có nhiều cuộc hội nghị, thảo luận nơi này và nơi kia, nghe rất hay về đề tài, nội dung và ý nghĩa; những biện pháp, mục tiêu được đề cập cũng rất thông tuệ, toàn hảo đầy sức thuyết phục – nhưng sau đó rồi thôi, ai về nhà nấy, việc ai nấy làm. Mọi tình trạng rồi vẫn y như cũ.


Riêng Phật giáo cũng đâu có khá hơn. Biết suông, bàn suông là căn bệnh thâm căn cố đế; và ở đâu cũng để giải quyết những vấn đề cành nhánh, ngoài rìa – còn cái trọng tâm, cái gốc con người thì ít khi bàn tới! Và dường như ở đâu cũng bất lực, không ai dám đề cập sự hoàn thiện bản thân!


Có hoàn thiện bản thân mới thể hiện được đời sống thân giáo – là cái gốc của giáo dục, là nhân tố quyết định cho mọi hiệu quả. Những tố chất trong lành, hiền thiện, nhân ái, bao dung, yêu thương, tín thành, chân thật, nghĩa tình, hiểu biết… càng ngày càng thiếu vắng đi trong mọi gia đình, cộng đồng, xã hội.


Nếu văn minh vật chất có được do phát triển khoa học, kinh tế – nhưng không có những giá trị triết mỹ làm cơ sở nên tảng thì đấy là dấu hiệu của hủy diệt, là sự sa đọa bi thảm của con người! Phải giáo dục văn hóa (văn học – thơ, văn, ca dao, tục ngữ; nghệ thuật – hội họa, nhiếp ảnh, điêu khắc, kiến trúc, thư pháp, dân ca, cổ nhạc…) là để tăng trọng phần người hơn phần con.


Giáo dục tâm linh (tôn giáo, tín ngưỡng…) là để cho nhân gian có chỗ nương tựa vững chắc và an ổn. Tuy nhiên, hai lãnh vực đi sau phải lấy minh triết Phật và minh triết Việt để nương tựa. Đây là cả một sự khó khăn… vì cái gì, ở đâu cũng mạo danh văn hóa, mạo danh tâm linh cả.


Chúng đã bị lạm phát! Chúng đã bị lợi dụng! Vai u thịt bắp cũng văn hóa! Xem giá trị của đôi chân hơn chất xám của tế bào não cũng văn hóa. Nhảy múa lố lăng, khoe đùi khoe bắp cũng văn hóa! Xin xăm bói quẻ cũng tâm linh! Lên đồng, lên cốt cũng tâm linh! Vàng mã, tiền giấy, hình nhân thế mạng… cũng tâm linh! Sì sụp khấn vái gốc đa, ông táo… cũng tâm linh! Hối lộ thần linh để được mua may bán đắt, thăng quan tiến chức cũng tâm linh!


Đây chính là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo chính phủ, trách nhiệm của các vị lãnh đạo tôn giáo! Họ phải có tâm, có trí (minh triết) và phải có mắt để nhìn xa, trông rộng!


Giáo dục toàn diện, con người toàn diện để kế thừa và nuôi dưỡng minh triết phương Đông – cần có nội hàm ấy, đi theo thước đo ấy mới hy vọng tiếp truyền nội lực văn hóa và sức mạnh tâm linh của cha ông trong mấy ngàn năm lịch sử; đồng thời sánh vai đối thoại với minh triết phương Tây để cùng văn minh, tiến bộ trong hòa bình, hạnh phúc.


Tất cả mọi loại hình văn hóa, mọi hình thái giáo dục đều nên tiếp thu, chọn lựa, sàng lọc – nhưng chỉ nên sử dụng chiếc áo nào vừa vóc dáng, khổ người – trên nền tảng bản sắc Đông phương, bản sắc dân tộc, bản sắc đạo Phật Việt Nam, cư dân thủ đô hay thành phố, người ở quận huyện, phường xã hoặc làng bản…


Lại còn ở trong hoàn cảnh đất nước đang phát triển, đang cải cách, đang chuyển đổi, đang thuộc diện những nước đói nghèo, ô nhiễm môi sinh và nhiều vấn đề cấp bách khác đang cần được cải thiện sớm chừng nào tốt chừng ấy. Phật giáo nằm trong vùng khí hậu, không gian chung ấy, từng địa phương khu biệt ấy – nên mỗi nơi phải biết vận dụng khác nhau, không thể rập khuôn theo một kiểu mẫu, công thức nào. Tìm ra được cái riêng trong bối cảnh chung ấy, đòi hỏi những người trách nhiệm hữu quan phải sáng suốt; nghĩa là vừa có tâm lại phải có tầm nữa vậy.


Cuối cùng, nội dung bài tham luận này chỉ là sự đóng góp một vài ý tưởng khiêm tốn, đôi nơi hơi võ đoán và chủ quan, không tránh khỏi nhiều sơ suất – nhưng là với tất cả sự thiện ý và lòng chân thành của một người con Phật, của một người con dân đất Việt.


Minh triết phương Tây và minh triết phương Đông, từ khởi nguyên đều nói về nhân bản, con người tại thế – nhưng minh triết Phật vừa tại thế, vừa xuất thế được thực chứng bởi tâm linh trực giác, giải quyết trọn vẹn và toàn mãn mọi đau khổ phiền não nội tâm cho con người thì chưa có nền minh triết nào có được! Hy vọng rằng, chư vị tôn túc thạc đức, cao tăng, các bậc thức giả, trí giả, các vị lãnh đạo – sẽ tìm được một hướng đi thích hợp cho nền giáo dục toàn mãn; mà ở đó, những cặp phạm trù dường như lưỡng nguyên này: Tinh thần (tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa) và vật chất (khoa học, kinh tế, môi sinh…), nhập thế (hữu vi) và xuất thế (vô vi), tri (tư duy, kiến văn) và hành (thực hiện, ứng dụng vào đời sống), tự độ (căn bản trí, hoàn thiện bản thân) và độ tha (phương tiện trí, tùy duyên, hoàn cảnh)… được quân bình, hài hòa thì thật là phúc lớn cho nhân quần, xã hội.


Người ta nói rằng, triết lý phải soi đường cho khoa học, nhân sinh; tôi bảo không phải thế, triết lý chỉ dẫn đến xung đột, chiến tranh; chính minh triết mới đem đến thanh bình và an lạc cho con người muôn nơi muôn thuở!


Tỳ-khưu Giới Đức


(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Mùa An cư Mậu Tý – 2008.
——————————————————————————–


[1] Phỏng trích  Đức Phật và Phật pháp của Nàrada, Phạm Kim Khánh dịch, nxb Tôn giáo, 2007, các trang  265, 267 và  276.


Xem phần 1: Phật giáo có thể đóng góp gì cho Minh triết Việt (phần 1)