Trang chủ Nghiên cứu Phật giáo và Hoà bình thế giới, phần 2

Phật giáo và Hoà bình thế giới, phần 2

96

11. Đấng Sáng Thế và Hoà Bình

Theo Phật giáo không có sự phân biệt giữa Đấng Sáng Thế và người được thụ tạo – một điểm chính trong Phật giáo là sự thống nhất giữa cá thể trong tất cả (và không chỉ có hình ảnh một con người đơn nhất của thế giới). Từ quan điểm lý thuyết về hoà bình, điều này có nghĩa là chúng ta phải dựa vào chính chúng ta mà thôi. Phật tử không hy vọng đạt được sự an hoà bằng cách đổi lại phải vâng lời Đấng Tối Cao, xem đây như là một phần ân huệ do Ngài ban phát. Khi nỗ lực cho lý tưởng, Phật tử cũng không bị ngăn trở giống như: ‘Nếu Đấng Sáng thế muốn có bình an, Ngài sẽ ban cho sự bình an’. Hoà bình phải là những hành động của chính chúng ta, như là một phần trong tiến trình sáng tạo thế gian được tao ra do các sinh vật hữu tình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hoà bình không phải là quà tặng, mà là kết quả khả dĩ của một hành động tập thể có ý thức sâu xa.

12. Mối Quan Hệ Gắn Bó

Trong Phật giáo, ít có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể. Không phải chỉ có chúng ta quan sát thế giới mà còn có thế giới quan sát chúng ta. Chúng ta nằm trong thế giới mà còn thuộc về một thành phần của thế giới. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa là có một quan hệ biện chứng đang xãy ra khi chúng ta ảnh hưởng thế giới và thế giới ảnh hưởng chúng ta. Hoà bình không phải là một cái gì đó mà chúng ta tạo ra bằng cách định hình cho thế giới, hoà bình cũng là một cái gì đó mà thế giới định hình trong chúng ta trong tiến trình. Nhiệm vụ của chúng ta là sử dụng biện chứng này một cách tích cực nhất. Và điều này không thực hiện bằng cách như phương Tây đề ra các câu hỏi thí dụ như: “Chúng ta bắt đầu từ đâu để thay đổi thế giới hoặc là để thay đổi chính chúng ta?” Phật tử không làm như vậy, nhưng bằng cách cổ vũ cho tất cả mọi tiến trình thay đổi trong cả bốn phạm vi thiên nhiên, con người xã hội và thế giới cùng chuyển động.
   
13.  Vô Thường
Theo tư duy Phật giáo, có tính vô thường trong vạn vật. Thế giới và vạn vật tăng và giảm mức độ, không luôn ở một dạng cứng ngắc của một cấu trúc tổng thể – nhưng đúng hơn là giống như một tiến trình dựa trên dị biệt trong mối tương tác để cộng sinh. Khi cố làm cô động lại thế giới trong một hình thái độc nhất và vĩnh cửu, nỗ lực này vô nghĩa. Dù theo bất cứ một kế hoạch nào để kiến tạo hoà bình, kế hoạch này phải là một tiến trình, không thể là một kế hoạch thuộc về cơ cấu. Theo quan điểm về lý thuyết hoà bình, kế hoạch theo tiến trình thực tế hơn là theo cấu trúc, vì đề ra chuyện lâu dài mà hoà bình có thể hình dung ra được, không chỉ cứ xét đến các đặc điểm của bốn phạm vi trong tổng quát và còn trong sự tương tác trong từng phạm vi chuyên biệt.

14. Tương Tác

Theo tư tưởng của Phật giáo, sự tương tác luôn đến từ hai chiều. Ý thức của tôi đang hướng về thế giới và thế giới đang định hình ý thức của tôi. Muốn thành đạt bất cứ điều gì, chúng ta không bao giờ cố tiến hành trên một con đường thẳng, đẩy mạnh đòn bẩy, mà quên rằng mọi tác động luôn có phản ứng. Chúng ta cũng không nên cố dùng một đòn bẩy để làm chuyển động phần còn lại của toàn hệ thống, mà đúng hơn là nên làm chuyển động từ mọi các góc cạnh trong cùng một lúc. Thay vì chỉ đẩy mạnh một chiều, tốt hơn cần phối hợp nhiều nỗ lực nhỏ, nhưng theo nhiều chiều hướng trong cùng một lúc, khởi đầu từ mọi góc cạnh của thực tại từ vật chất đến tinh thần, nhưng luôn nhớ rằng hệ thống sẽ phản ứng trong một mạng lưới phức tạp. Hoà bình không phải chỉ là bất khả phân; hoà bình, phát triển, và quân bình kinh tế là bất khả phân. Toàn bộ lý luận của hệ thống phải thay đổi theo theo tiến trình tác động và phản ứng để kiến tạo hòa bình có kết quả hơn. 

15. Mâu Thuẫn

Theo Phật giáo, thế giới có nhiều tương phản, phương cách tiếp cận có nhiều nghịch lý. Vì thế mà suy nghĩ của người Trung Quốc hiện nay có đặt ra ‘một quốc gia, hai hệ thống’, – có nghiã là vừa có Xã Hội chủ nghĩa và Tư Bản chủ nghiã trong cùng một quốc gia. Cộng Hoà Nhận Dân Trung Quốc về cơ bản là một quốc gia theo Phật giáo và có nhiều tôn giáo, nhưng chắc chắn là không phải là quốc gia theo Mác xít, với một hệ thống giáo điều thẳng tấp một chiều như phương Tây.

Theo quan điểm lý thuyết về hoà bình, không nên chống lại tất cả mọi tương phản, cố tạo thành một hệ thống thuần túy, việc này sẽ gây ảnh hưởng. Đa dạng với mọi loại tương phản là chuyện có thể, ngay cả còn là điều mơ ước. Điểm này cực kỳ quan trọng, vì chúng ta sẽ luôn luôn sống trong một hỗn hợp của các hệ thống với những cách lý luận khác biệt. Hướng về một thực tại không có mâu thuẫn sẽ là vô nghĩa theo triết lý Phật giáo, vì Phật giáo thấy sức tác động của nguyên nhân đến từ muôn hướng.

16. Pháp Luân

Tư tưởng của Phật giáo kết hợp như một pháp luân. Nó không theo mô hình kim tự tháp và suy diễn từ những nguyên tác đầu tiên. Từ những tư tưởng dị biệt như tôi đã đề cập ở trên, thì không có một nguyên tắc nào được coi như là nền tảng hơn các nguyên tắc khác. Đứng hơn, những nguyên tắc này được kết cấu xoay quanh như một bánh xe, mà chúng ta cần tìm hiểu là mọi đường lối có thể tạo được những điểm nối kết chung (có điều nguy hiểm là dễ đưa chúng ta tới tình trạng song phương, chỉ luôn nhìn hai điểm trong cùng lúc, mà đúng ra có thể là ba, hay bốn hoặc nhiều hơn). Không có điểm nào là nền tảng hay chung quyết tạo niềm tin, mà đúng ra toàn bộ hệ thống mở ra những điểm mới, có nghĩa là ta cần những phương cách tiếp cận mới. Khi bánh xe pháp luân Phật giáo xoay chuyển qua thời gian, những điểm nối kết mới sẽ mở ra những mạng lưới mới chặt chẽ hơn về tư tưởng và hành động.

Chung cục, tổng thể cuả pháp luân chính là vấn đề, một phương cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc nhất thể và năng động – đối nghịch với phương cách suy diễn theo mô hình kim tự tháp nhằm kết hợp với những nhận thức rời rạc hay những phát minh. 
17. Lạc Quan

Tư tưởng của Phật giáo cực kỳ lạc quan. Có Phật tính trong tất cả chúng ta, nếu chúng ta thực hiện Phật tính và tự thân nỗ lực. Không có ai ở bên ngoài khác hơn. Nhưng có sự dị biệt giữa Đại Thừa khi nhấn mạnh diệt khổ và Tiểu Thừa khi nhấn mạnh hạnh phúc. Vì thế, có lập luận cho rằng Tiểu Thừa hướng nhiều hơn về hoà bình tiêu cực, trong khi Đại Thừa chú trọng hơn về hoà bình tích cực. Vì cả hai là những thành tố của khái niệm hoà bình năng động, sự dâng hiến của Phật giáo cho thế gian phải là sự kết hợp giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, xem cả hai phương cách tu tập như là những khuôn mẫu cho sự dị biệt, và hãy để cả hai tương tác nhau theo cách cộng sinh nhau. Đúng đây là một thách thức cho Phật giáo.

18. Tuần Hoàn.

Quan điểm Phật giáo về tiến trình có tính tuần hoàn hơn là theo một tuyến tính. Không có một bảo đảm chính xác nào rằng mọi sự thể sẽ tốt đẹp hay sẽ diễn biến tồi tệ. Có sự thăng trầm trong bốn phạm vi, sự tình có khi thăng, có khi giảm, và ngược lại, (hoàn toàn đối nghịch với Thiên đường và Điạ ngục theo thần học Thiên Chúa giáo, khi xem cả hai là điểm chung cục trong sự tiến hoá của con người, một điểm mà người ta không còn chổ thoái lui). Từ trên quan điểm lý thuyết về hoà bình, thuyết tuần hoàn có thể giúp cho Phật tử ngăn ngừa mọi lạc quan thái quá khi sự thể tốt đẹp hay bi quan cùng cực khi khi tình huống xấu đi, mở ra một vị thế trung dung trong quan điểm này. Mặt khác, đặc biệt trong Đại Thừa, có một sự lạc quan chừng mực thúc đẩy cho quan điểm tuần hoàn có yếu tố thăng tiến theo tuyến tính, như một cách chuyển động theo hình vòng xoắn. 

19. Nỗ Lực Liên Tục

Điểm chủ yếu trong triết học Phật giáo là nỗ lực tiếp nối, tự cải thiện, và tinh thần cầu tiến không ngừng, đó là những điểm tất yếu mà còn khả thi, và – trong trường kỳ -, đầy đủ. Người ta không kỳ vọng từ một hành vi thuộc về đức tin, hay do sự thuần phục hoặc ân sủng do nơi cao cả hoặc các hành vi này là hữu ích theo ý  nghĩa nào đó (nhưng có một ngoại lệ trong Phật giáo A Di Đà). Nhiều nỗ lực siêng năng là cần thiết, – một lối suy nghĩ hoàn toàn phù hợp với lý thuyết hoà bình. Hơn thế, hoà bình không phải là tình trạng tối hậu ở cuối con đường, ổn định và tự tin khi đạt được, nhưng chỉ là một nỗ lục còn tiếp nối, nếu có thể.

20.  Niết Bàn

Và cuối cùng, mục tiêu tối hậu của Phật giáo cho con người là Niết Bàn, một nơi được coi như một khuôn mẫu để chuyển hướng trong mọi chuyển động. Khái niệm này không thể diễn dịch như tình trạng hủy diệt hay dập tắt hay các hình ảnh ẩn dụ tương tự khác trong các lối trình bày của phương Tây. Đúng hơn, nên coi Niết Bàn là một loại thực hiện lý thuyết kết hợp nhất thể trong tất cả, một loại tự thực hiện khi đạt được tinh thần Vô Ngã với tâm trạng hạnh phúc hằng cữu. Điều này hoàn toàn phù hợp với ý tuởng về hoà bình như tôi đã trình bày ở trên trong phần giới thiệu khái quát về lý thuyết hoà bình. Niết Bàn là một chuyển hướng trong chuyển động, hoà bình cũng là một chuyển hướng trong chuyển động.

Do đó, trong một ý nghĩ nào đó, hoà bình là thiên đàng và thiên đàng là hoà bình. Biên giới được loại bỏ, khi sự kết hợp nhất thể đã đạt được. Và 19 điểm vừa nêu trên được cụ thể hoá ở điểm 20.  

Sáu Khuyết Điểm Của Phật Giáo Làm Ngăn Trở Hoà Bình

Nhưng Phật giáo cũng có những khuyết điểm mà ta giải thích được tại sao không có đóng vai trò quan trọng như là một yếu tố kiến tạo hoà bình, một điểm chắc chắn Phật giáo có tiềm năng thực hiện. Sáu điểm sau đây sẽ minh chứng cho vấn đề. Những ai sống trong các nước theo Phật giáo có thể thấy được nhiều hơn.
1. Khoan Dung Với Quân Phiệt 

Khoan dung là điều tốt, nhưng khoan dung Phật giáo đưa tới chổ quá mức độ, thí dụ như trong những chế độ quân phiệt dùng cực kỳ bạo lực – như trong trường hợp Nhật Bản nơi mà Phật tử cũng bám chặt dễ dàng Thần Đạo và kết hợp với Khổng giáo trong một cách cực kỳ nguy hiểm và trợ lực cho giới quân phiệt của Nhật (lối tự tử kamikaze của cảm tử quân là một thí dụ rõ nhất). Một truờng hợp khác mà chúng ta nhớ tới là sự hỗ trợ của Phật tử cho chế độ quân nhân tại Thái.

2. Bất Động Trước Bất Công

Khoan dung là điều tốt, nhưng Phật giáo lại khoan dung quá mức cho những hệ thống sử dụng bạo lực thành một cấu trúc, thí dụ như trong các chính sách kinh tế, làm cho thuyết Trung Đạo không thể thực hiện được. Kết quả là có một mặt có tầng lớp tận cùng nghèo đói, mặt khác có tầng lớp cực kỳ giàu sang mà Phật tử không tranh đấu chống lại hệ thống, điểm tất yếu, vì đó có thể là nỗ lực để thực hành thuyết Trung Đạo. Một lần nữa cho thấy Nhật Bản là một tấm gương cho cho chính sách kinh tế này.

Nếu xét về phương diện quốc tế, Nhật tự tích luỹ giàu sang trong khi các nước quanh Nhật chiụ cảnh nghèo, kể cả tận cùng khổ cực. Nhưng cùng lúc cũng nên đề cập thêm rằng sự phân phối lợi tức tại Nhật lại là một trong những nước công bình nhất trên thế giới. Chỉ số về công bình biến đổi rất ít qua thời gian – điều này có nghịã là thăng trầm trong lợi tức đối với tầng lớp lãnh đạo và dân chúng đến từ những cách sống nhiều hơn. Trong một chừng mực nào đó, có thể quy cho việc cả hai yếu tố này ảnh hưởng về tư tưởng và tu tập của Phật giáo trong nước.

Điểm này có thể cho thấy rằng, nếu theo ý nghĩa này, Phật giáo là một lý thuyết xã hội nhiều hơn là thế giới, trong khi các lý thuyết quan trọng đề ra những khuôn mẫu thái độ trong thiên nhiên và cho con người, thì Phật giáo có tác động ít hơn, vì cho phạm vi cá nhân hơn là vĩ mô. Như tôi đã đề cập ở trên, Phật giáo có nhiều ưu điểm khi đề ra có nhiều phạm vi liên hệ nhau.

Điểm này dễ đưa đến sự mù quáng gây ra bao dung quá mức trước những hành vi đầy bạo lực trong các phạm vi khác. Một sĩ quan cùng chia sẽ hiểm nguy và đối xử tốt đẹp với binh sĩ trong khi lại nỗ lực tàn bạo để dẹp tan quân thù, giám đốc doanh nghiệp cùng chia lương, quyền lực và ưu quyền với nhân viên nhưng lại bóc lột những doanh nghiệp đối tác qua hợp đồng và thị trường hải ngoại không thương xót, đó là thí dụ.

3. Cách Biệt Xã Hội

Ý tưởng cho là làm việc trong những đơn vị nhỏ gần chùa, bên giếng nước, trong thôn làng dưới sự hướng dẫn của sư tăng là điều tốt đẹp. Trong Tam Bảo thì Phật và Pháp luôn luôn có trong lòng đại chúng, nhưng Tăng bị đặt ra bên lề xã hội. Sư tăng, có điều kiện sinh hoạt hoành tráng nhưng còn là các đơn vị nhỏ, tách biệt với xã hội, điều này có nghiã là cả hai đặc điểm vừa huy hoàng vừa cách biệt chính là tạo cho sư tăng thực hành từ bi và bất bạo động với chính các sư tăng, (không đến giữa lòng xã hội).

Phật giáo trở thành phạm vi riêng biệt, dù không theo ý nghịã cá nhân hoá, nhưng theo ý nghĩa chỉ thuộc về sinh hoạt chung cho một nhóm nhỏ, một cách khởi động hợp tác chung để tu tập hướng về Phật tính. Ảnh hưởng của một xã hội vĩ mô bị xao lãng, có tác dụng tiêu cực khi đem cá nhân xa rời con đường tiến tới Phật tính thoát khỏi sinh hoạt tuần hoàn trong xã hội.

4. Thoả Hiệp Để Tu Tập

Phật giáo dễ dàng chấp nhận là giới lãnh đạo đất nước áp dụng đường lối đối nghịch với Phật giáo mà chỉ cần cho Phật giaó có đủ tự do hành đạo. Nói một cách khác, Phật tử giống như những người khác, quá dễ chấp nhận sự thoả thuận với bạo quyền và dĩ nhìen không tránh khỏi bị cám dỗ bởi những phúc lợi phụ thuộc, những thu nhập tạo nên ý thức là cần phải có thỏa thuận. Khi Phật giáo trở thành quốc giáo, nguy hiểm trở thành hiển nhiên; Thái là trường hợp này và Sri Lanka có thể cũng là một trường hợp khác.

5. Thịnh Suy

Thuyết thịnh suy được xem như đối nghịch với một tiến trình theo tuyến tính, điểm này phù hợp với thuyết định mệnh, chấp nhận bị đánh bại dễ dàng, ngay cả khi trong thâm tâm không có sự đầu hàng. Theo thuyết thịnh suy, suy tàn là chuyện không thể tránh. Tuy nhiên, tin vào thuyết thịnh suy cũng không phải là quá nguy hiểm vì cũng tin là sẽ có sự hưng thịnh đến đúng lúc. Ý nghĩ làm cho thịnh suy này cũng sẽ tới bằng một cách nào đó, nên không cần có nỗ lực đích thực. Tóm lại, những thành kiến của phương Tây về thuyết đinh mệnh của phương Đông là sự thật, và dĩ nhiên, cũng có thể là ngược lại.  

6. Nghi Lễ Quá Mức

Nếu chấp nhận năm điểm trên, thì Phật giáo có thể dễ trở thành một tôn giáo nhiều nghi thức, huy hoàng, được thêu dệt lộng lẫy giống như vô số các đền chùa taị Đông Nam Á và Đông Á. Nhưng đó có thể cũng là tất cả cho vấn đề. Mục tiêu là hướng về Phật như là một hình tượng được khâm phục quá mức để chấp tay nguyện cầu, nghiêng mình đảnh lễ trước hình ảnh của Đấng Như Lai.

Sự tôn trọng về Pháp, những lời dạy của Ngài, chỉ là những điều được học thuộc lòng, ngay cả bằng những ngôn ngữ xưa cũ, (thí dụ như tiếng Pali đối người Tích Lan, tiếng Sankrit đối với người Ấn hoặc cổ ngữ Trung Hoa và nhiều ngôn ngữ khác). Và Tăng có thể được ngưỡng mộ, nhưng họ quá cách biệt và không thể bắt chước. Nói một cách khác, Phật giáo trở thành một đối tượng khách quan hơn là một caí gì đó chủ quan để đi vào cuộc đời của con người như là một nơi tích lũy vô biên về nhận thức của kiếp nhân sinh, một loại triết tâm lý không thể so sánh. Phương cách thực hiện này chỉ làm cho Phật giaó trì trệ – hay nói một cách khác, Phật giáo lả một tôn giáo đang suy tàn.

Kết Luận

Nhìn xuyên qua 20 điểm tích cực và 6 điểm tiêu cực vừa trình bày, bảng tổng kết sau đây cho thấy một điều hiển nhiên: Phật giáo có một tiềm năng cực kỳ to lớn như là một nguồn lực đóng góp cho một chính sách hiếu hoà năng động; trong một tầm mức qui mô hơn, có thể nói Phật giáo là một tiềm năng chưa được khai thác. Nhưng Phật giáo phải hồi sinh thoát những ảnh hưởng thâm lạm của một thế giới sử dụng bạo lực trực tiếp và có tính cấu trúc.

Hiển nhiên, các tiềm năng về hoà bình đều có trong các tôn giáo khác. Nhưng Phật giáo khác với những tôn giáo khác (thí dụ như Do Thái, Thiên Chúa và Hồi giáo). Dù không thể nào tin được, nhưng Phật giáo còn được dùng để biện minh cho những hành vi trực tiếp sử dụng bạo lực và có tổ chức, chiến tranh và bóc lột.

Nếu khi Thiên Chúa giáo thay các mặt xấu đi, họ gây chiến. Nếu Phật giáo muốn thay các mặt xấu đi, họ thoái lui và che đậy bằng nghi thức. Nhiệm vụ của chúng ta là làm chuyễn biến cả hai chiều hướng tốt đẹp của cả hai tôn giaó này và những chiều hướng tốt đẹp này có thể thực sự là phù hợp đem lại những hậu qủa cho hành động.

Không những nhớ đến cách thực hành giáo lý của Đức Phật, mà còn nhớ những lời giáo huấn về chính trị và xã hội cho việc hình thành mối tương tác trong xã hội trong thời của Ngài, cả hai là điều bổ ích cho chúng ta. Điểm mà chúng ta còn thiếu sót có thể là: khi ý thức nhiều hơn những gì Phật giaó mang lại ý nghĩa trong tu tập, thì chúng ta sẽ có  nhiều thực tập hơn để dẫn dắt chúng ta áp dụng những nhận thức này.

Dĩ nhiên, vai trò lãnh đạo của Phật tử có nhiều mẫu mực, gây cảm hứng và quan trọng như cố Tổng Thư Ký LHQ U Thant, người Miến Điện, Soka Gakkai nhà lãnh đạo thế giới, Ikeda Daikasu, người Nhật, Ariayaratne, nhà lãnh đạo thế giới, Sarvodaya Shramdadama, người Sri Lanka. Thách thức chắc chắn là ở điểm này.

Khắp nơi trên thế giới đã có những nỗ lực nhằm kiến tạo một cấu trúc hoà bình – nhưng những nỗ lực này thường thiếu đi phần tinh thần đạo đức. Trong việc tìm kiếm một cấu trúc cụ thể, có lẽ Phật giáo chính là tinh thần đạo đức này. Có thể cả hai gặp gỡ nhau và đây là một thí dụ cụ thể về sự hạnh ngộ Đông và Tây mà chúng ta hằng mong đợi. 

Hết

Đỗ Kim Thêm (dịch)