Trang chủ PGVN Nhân vật Sự nghiệp Quốc sư Khuông Việt với Đạo pháp và Dân tộc

Sự nghiệp Quốc sư Khuông Việt với Đạo pháp và Dân tộc

I. Về thân thế:

Quốc sư thế danh Ngô Chân Lưu, , sinh năm 930, tại làng Cát Lợi, phủ Thường Lạc, nay là xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn – Hà Nội. Thân phụ là Ngô Xương Tỷ. Ngài là hậu duệ của Ngô Thuận Đế (Ngô Mân). Lớn lên, Ngài xuất gia tu học tại chùa Phật Đà.

Năm 20 tuổi (950) cùng Trụ trì chùa Phật Đà, đến chùa Khai Quốc (Trấn Quốc), Gia Lâm – Hà Nội cầu pháp, thụ Đại giới với Thiền sư Vân Phong. Thiền sư Vân Phong (? – 956) là thế hệ thứ ba dòng Thiền Vô Ngôn Thông, thứ nhất là Thiền sư Cảm Thành, thứ hai là Thiền sư Thiện Hội là dòng Thiền Quan Bích, suốt ngày xoay mặt vào vách quán chiếu tư duy, như Tổ Bồ Đề Đạt Ma, 09 năm xoay mặt vào vách ở chùa Thiếu Lâm – Trung Quốc. Sau khi cầu pháp, thụ giới Tỳ kheo, cùng Thầy học đạo, thấm nhuần tư tưởng Thiền Vô Ngôn Thông, là tư tưởng thể nhập, trực nhận qua câu nói: “Tây Thiên là đây. Đây là Tây Thiên”, nghĩa là “Đất Phật tại Việt Nam, Việt Nam là đất Phật”. Nói khác đi: Phật Tâm ở tại tâm con người Việt Nam, trên đất nước Việt Nam, không đâu xa. Chỉ điều quan trọng là trực nhận và nhận thức đúng thì đạt Chân lý. Nhận thức không dúng, tìm cầu bên ngoài thì không bao giờ đạt được. Như Thiền Tông có câu: “Hướng ngoại mích cầu, chung vô khả đắc” (Tìm cầu Phật tánh bên ngoài, cuối cùng không bao giờ đạt được Phật Tâm, thành Phật).
 
Có một lần, Thiền sư Thiện Hội bảo: “Lẽ sống chết là việc lớn, phải giải quyết ngay”. Vân Phong hỏi Thầy mình là Thiền sư Thiện Hội: “Như chết đến làm sao tránh khỏi”. Thiện Hội đáp: Hãy ngay chỗ sống chết mà tránh! Vân Phong hỏi: Thế nào là chỗ không sống chết? Thiện Hội đáp: Ngay sống chết mà trực nhận không sống chết mới được. Vân Phong hỏi: Làm sao hiểu được? Thiện Hội đáp: Ngươi hãy đi, chiều mai đến muộn một tí! Chiều mai Vân Phong đến, Thiện Hội nói: Đợi đến sáng mai, đông đủ sẽ chứng minh cho ngươi. Vân Phong chợt ngộ. Thiện Hội hỏi: Ngươi thấy đạo lý gì? Vân Phong đáp” Con đã lĩnh hội rồi. Thiện Hội hỏi: Ngươi hiểu thế nào? Vân Phong đưa nắm tay lên nói: Bất tiếu là cái nầy đây. Thiện Hội nói: Thôi. Ý nói: Sự thấy và vật được thấy là đây không đâu xa. Nếu không có sự thấy thì không thấy; và sự thấy ấy ngay nơi nó xuất hiện tác dụng từ con người và tại đây không đâu xa, tìm đâu xa là không đúng. Như Trần Nhân Tông nói: “Của báu đầy kho thôi tìm kiếm. Với cảnh không phân biệt ấy là Thiền”.
 
Trước Vân Phong, Thiền sư Cảm Thành đời thứ nhất, là Thầy Thiền sư Thiện Hội cũng đã nhấn mạnh: “Phật ở khắp mọi nơi”. Thiền sư Thông Biện cũng đề xuất từ Kinh Kim Cang: “Tất cả Pháp đều là Phật pháp”. Với tư tưởng ấy, Kinh Hoa Nghiêm cũng xác lập: “Pháp thân hiện hữu khắp Pháp giới. Tất cả chúng sinh và quốc độ. Ba đời có đủ không hề thiếu. Do không hình, sắc, nên không thể thấy” (Pháp thân sung mãn ư Pháp giới. Nhất thiết chúng sinh cập quốc độ. Tam thế như tư, giai cụ túc. Diệc vô hình sắc, bất khả đắc). Và Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi cũng đề cập từ Kinh Tinh Xá Đầu Voi: “Bồ đề là tâm thể Vô tướng, cần phải thể nhập, chứ không thể chỉ hay nói ra được, vì là Vô tướng”.
 
Khi sinh thời, Ngài thường dạo chơi núi Vệ Linh (núi Sóc), quận Bình Lỗ nay là Sóc Sơn – Hà Nội. Thấy phong cảnh hữu tình, thích thú, muốn lập am tịnh tu. Đêm đến, Ngài nằm mộng thấy một người mặc áo giáp vàng, tay phải nâng bảo tháp đến mách bảo: Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Đa Văn Thiên Vương), trấn phương Bắc Núi Tu di, nay vâng mệnh Đế Thích đến trấn Bắc Đại Việt, nhằm hộ trì cho Quốc gia hưng thịnh, độc lập, phú cường và Phật pháp được trường tồn. Thức giấc, Ngài nghe tiếng động pát ra từ khu rừng. Đi vào trong, thấy một cây to, có mây lành che phủ, Ngài cho đốn cây về tạc tượng y như đã thấy trong mơ để tôn thờ tại chùa Sóc Thiên Vương và Trụ trì tại đấy, nay là chùa Non Nước – Hà Nội. Sau khi Bổn sư Vân Phong viên tịch (956), Ngài về Trụ trì chùa Khai Quốc, hóa đạo tại đây.  
 
Sau khi từ quan, Ngài về núi Du Hý – Kim Anh, Vĩnh Phúc, thành lập chùa Thanh Tước, giảng đạo, mở lớp dạy học, đào tạo được đệ tử xuất sắc là Thiền sư Đa Bảo, qua sự tỏ ngộ câu nói của Khuông Việt: “Học đạo không có khởi đầu và kết cuộc. Nếu nhận thức đúng chân lý, thì đồng với hư không, vì Đạo là Vô tướng, rộng lớn như hư không”. Sau này, khi vua Lê Long Đỉnh băng hà, Ngài cùng Đa Bảo và Quốc sư Vạn Hạnh, Chi Hầu Đào Cam Mộc trù tính kế hoạch đưa Lý Công Uẩn lên ngôi Vua, mở đầu Triều Lý (1009 – 1225).
 
Trước khi thị tịch, Ngài gọi Đa Bảo đến và nói bài kệ Phật tính cụ túc là: “Trong cây vốn có sẵn lửa, vì sẵn có lửa nên khi cọ xát, thì lửa bốc lên. Nếu như trong cây không sẵn có lửa, thì khi cọ xát làm sao lửa phát ra?” (Mộc trung nguyên hữu hỏa. Hữu hỏa phục hoàn sanh. Nhược vi mộc vô hỏa. Toản toại hà do manh?). Ý nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Do đó, nếu có chúng sinh tu hành thành Phật. Nếu không có thì không có Phật đã thành. Nhưng đều quan trọng là làm sao cho Phật tánh hiển hiện. Đó là điều căn bản của vấn đề. Ngài tịch 15/2âl năm Thuận Thiên thứ hai đời Lý Thái Tổ (1011). Thọ 82 tuổi.
 
II. Sự nghiệp đối với Dân tộc:
 
Sau khi chiến thắng, dẹp loạn 12 Sứ quân, Vua Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi tại Hoa Lư – Ninh Bình, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng năm 969, Ngài được vua Đinh phong chức Tăng Thống; năm 971 Vua lại phong chức Khuông Việt Thái Sư (Phò tá giúp nước Đại Việt) phát triển, hùng cường, độc lập tự chủ.
 
Với vai trò Tăng Thống, Khuông Việt Thái Sư, Ngài đã hướng dẫn triều đình nhà Đinh và quốc dân Đại Cồ Việt theo tinh thần Phật giáo. Tuy nhiên, không có kỳ thị các tôn giáo khác, có nghĩa là cùng phát triển, hòa hợp dân tộc, chống ngoại xâm cùng mục đích chung. Do đó, Lão giáo dưới sự lãnh đạo của Đạo sĩ Đặng Huyền Quang – Sùng Chân uy nghi, vẫn phát triển song hành và được triều đình kính trọng và Mật tông cũng phát triển hài hòa với Thiền và Tịnh độ tông trong ngôi nhà chung Phật giáo Đại Việt.
 
Với vai trò là Tăng thống, là Thầy chứng minh, hướng dẫn triều đình tu hành, cai trị đất nước Đại Việt theo tinh thần Phật giáo, và có thể nói, cả gia đình Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn v.v… đều là Phật tử. Do đó, mọi sinh hoạt liên quan đến đất nước, thần dân, trăm họ đều xin ý kiến và được sự chỉ giáo của Khuông Việt Thái sư. Vì vậy, việc chọn Thần chú và Kinh văn để khắc vào trụ đá tràng kinh là do quyết định của Khuông Việt Thái sư; các thần chú Phật đãnh Tôn Thắng Đà La Ni là do Kim Cang Trí và Bất Không Kim Cương dịch với sự ghi chép của Vũ Triệt năm 819, là những thần chú của Mật tông (Kim cương thừa) mà Đại sư là một trong những nhà tư tưởng căn bản của Mật tông, do đó, cho thấy cơ sở việc cúng dường Pháp bảo của Đinh Liễn và hồi hướng cho hương linh Hạng Lang siêu thoát và cầu nguyện cho Vua cha giữ vững ngai vàng, bản thân Đinh Liễn cũng được lộc ấm lâu dài, là có cơ sở và phù hợp Chánh pháp. Như nội dung Kinh Phật Đãnh Tôn Thắng Đà La Ni nói:
 
Thuở xưa có một vị Thiên tử tên Thiện Trụ (Supratisthita) nằm mộng nghe có tiếng báo động là sau khi chết đoạ sẽ làm loài thú. Sau khi mãn kiếp thú lại sa vào địa ngục, mãn kiếp địa ngục đầu thai làm người nhưng mù đôi mắt. Thiện Trụ quá hoảng sợ, đến cầu cứu với Đế Thích. Đế Thích trình với Đức Phật nhờ cứu độ. Lúc ấy Đức Phật ở tại Tịnh xá Kỳ Hoàn, nước Xá Vệ. Đức Phật đọc bài Thần chú và khuyên đọc tụng thọ trì, sẽ được tiêu tai, hết tội, trừ nghiệp chướng, được tăng phúc tăng thọ và khuyên truyền bá cho chúng sinh đời sau. Khi tụng bài chú xong, Thiên Tử Thiện Trụ không chết, không bị nạn, mà còn thêm phúc, hưởng phước sống lâu. Vì vậy, việc khắc 200 tràng kinh của Đinh Liễn vào các năm 973, 979 là với mục đích ấy.
 
Đến năm 995, Quốc sư Khuông Việt lại chứng minh cho vua Lê Đại Hành khắc Kinh Phật Đãnh Tôn Thắng Đà La Ni, Chú Thủ Lăng Nghiêm vào trụ đá, đến nay vẫn còn lưu lại tại chùa Nhất Trụ – Ninh Bình, nhưng ý nghĩa lại khác là do vua Lê Đại Hành tin tưởng vào sự linh nghiệm của Thần chú và kính trọng Pháp lực mà khắc kinh vào bia đá để tôn thờ.
 
Sau khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám sát năm 979, Đinh Toàn còn bé, nên Quốc sư Khuôg Việt và triều đình đã tôn Lê Hoàn lên ngôi năm 980, lấy hiệu là Lê Đại Hành, và vua Lê vẫn tiếp tục cung kính trọng vọng Ngài và tôn làm Quốc sư năm 981.
 
– Trên lĩnh vực chính trị quân sự: Khi hay tin nhà Tống xâm lăng Đại Việt, Vua Lê Đại Hành mệnh Ngài đến núi Vệ Linh – Chùa Sóc Thiên Vương nơi Ngài đang trụ trì cầu nguyện, làm công tác tư tưởng, động viên tinh thần quân sĩ và toàn dân trước cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc Đại Việt. Do đó, có thể nói Ngài là thủ lĩnh, quân sư về mặt tinh thần bên cạnh quân dân Đại Cồ Việt lúc đất nước lâm nguy. Đó là, năm Thiên Phúc thứ 2 (981), Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua tự thân chinh đem quân chống lại, sai quân sĩ đóng cọc trên sông, quân Tống rút lui. Lại đến sông Chi Lăng, vua sai quân lính giả hàng để dụ bắt được Hầu Nhân Bảo và chém đi. Trần Khâm Tộ lui về, vua cho đuổi theo đánh bại, bắt được các tướng: Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư. Ngài đã giúp vua Lê Đại Hành chiến thắng quân Tống xâm lăng Đại Việt, giữ yên bờ cõi.  
 
– Về công tác ngoại giao: Năm Thiên Phúc thứ 8 (987) nhà Tống lại cử Lý Giác sang Sứ Đại Cồ Việt, đến chùa Sông Sách (Hải Dương), vua sai Pháp Thuận và Khuông Việt đón tiếp Sứ thần. Pháp Thuận giả làm lái đò đón tiếp Sứ thần nhà Tống.  
 
Qua cuộc đối đáp, trao đổi về văn chương, sứ Tống vô cùng kính trọng tài văn chương của dân Việt, đã làm bài thơ dâng lên vua Nam, nội dung như sau:
May gặp thời bình, giúp được mưu
Một thân hai lượt Sứ Giao Châu
Đông Đô đôi biệt lòng thêm luyến
Nam Việt muôn trùng mắt dõi theo
Ngựa đạp mây mù, qua sông, đá
Xe rời núi biếc thả đòng đưa
Ngoài trời còn có Trời chiếu sáng
Sóng lặng nghe đầm ngắm nguyệt thu.
 
(Hạnh ngộ minh thời tán thịnh du
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu
Đông đô lưỡng biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu
Mã đạp, Yên vân xuyên Lãng thạch
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiền thu).
 
Đỗ Thuận Pháp sư dâng bài thơ nầy cho Vua, Vua cho vời Ngài Tăng Thống Khuông Việt đến xem qua. Ngài tâu: “Câu thứ 7 (Ngoài trời còn có trời chiếu sáng), ý sứ Lý Giác kính trọng Vua Nam như là Vua nước Tống của họ”.
Trước khi về nước, vua Lê Đại Hành đã lịnh cho Tăng Thống Khuông Việt làm bài từ để tiễn đưa, nội dung:
 
Trời lành, gió thuận, cánh buồn giương
Thần tiến về Đế hương
Muôn trùng, vạn dặm, vượt trùng dương
Đường về thẳm chín tầng
Tình lưu luyến, chén lên đường
Bịn rịn Sứ tình lang
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Tâu rõ việc vua Tôi.
 
(Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Diêu vọng thần tiên phục đế hương
Vạn trùng thiên thủy thiệp tương lương
Cửu thiện quy lộ trường
Tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến sứ tình lang
Nguyên tương thâm ý vị biên cương
Phân minh tấu ngã hoàng).
 
Đây là bài từ hay nhất trong văn học chữ viết cổ điển của Việt Nam, cũng là văn bản ngoại chính trị đầu tiên của nước Nam. Công lao đóng góp về mặt văn hóa là một công trình bất hủ trong lịch sử văn học Việt Nam. Đồng thời, thể hiện tính chất ngoại giao mềm dẽo, khéo léo, hữu nghị lâu dài Tống – Việt.
 
Với công lao phục vụ hơn 30 năm, qua hai triều đại Đinh, Tiền Lê và 03 năm triều Lý lên ngôi dựng nước, một năm sau khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La – Thăng Long – Hà Nội ngày nay.
 
III. Đối với Đạo Pháp:         
 
Phật giáo trong những thập niên đầu của thời kỳ độc lập và tự chủ, cũng là thời đại Tam giáo đồng nguyên, nhưng những người lãnh đạo đất nước và Phật giáo quyết tâm loại trừ ảnh hưởng phong kiến phương Bắc, tạo cho Phật giáo Việt Nam, dân tộc Việt Nam có một hệ thống Đạo pháp vững chãi, độc đáo, mang tính đặc thù, độc lập của Phật giáo Việt Nam. Do đó, chức vụ Tăng thống là người đứng đầu Phật giáo cả nước bấy giờ, dưới có chức Tăng lục, do PHáp sư Trương Ma Ni phụ trách, là người giúp cho Tăng thống quản lý về Tăng Ni, Tự viện, sự tu học và phát triển Phật giáo. Tăng thống ngoài cương vị lãnh đạo Phật giáo cả nước, còn có trách nhiệm tham gia các công việc chính trị của triều đình, lo cho nước, cho dân là công việc thật nặng nề, trĩu nặng hai vai, bên Đạo và bên Đời đối với Quốc sư Khuông Việt. Quả thực, Quốc sư Khuông Việt không những là nhà lãnh đại Phật giáo Đại Việt, mà còn là nhà chính trị, quân sự và ngoại giao lỗi lạc của dân tộc Đại Việt và Phật giáo Việt Nam thời ấy.
 
Với chức Tăng thống, lãnh đạo Phật giáo cả nước như vậy đã có từ thời Đinh, Tiền Lê, đến thời Trần và Hậu Lê vẫn còn sử dụng, đến thời Nguyễn đổi thành Tăng Cang. Với chức Tăng thống đầu tiên của Phật giáo Việt Nam, mở đầu, đứng đầu chức Tăng thống Phật giáo Việt Nam trong hệ thống tổ chức Giáo hội từ xưa đến sau nầy, có ý nghĩa xuyên suốt và lịch sử hơn 1000 năm qua. Sau Tăng thống Khuông Việt có các Tăng thống tiếp theo như Tăng thống Quách Mão (Lê), Tăng thống Phí Trí, Tăng thống Thẩm Vân Quyển, Tăng thống Huệ Sinh, Thông Biện, Khánh Hỷ (Lý) .v.v… Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa Huyền Quang (Trần), Tăng thống Chân Nguyên (Hậu Lê), Tăng Cang Thiệt Thành Liễu Đạt, Tổ Ấn Mật Hoằng, Tiên Giác Hải Tịnh (Nguyễn), Thượng Thủ GHTGTQVN Tổ Tuệ Tạng, Pháp chủ thứ nhất GHPGVN HT. Thích Đức Nhuận, Pháp chủ thứ hai – HT. Thích Tâm Tịch, Pháp chủ thứ 3 – HT. Thích Phổ Tuệ (Hiện đại).
 
Với vai trò Tăng thống, chứng minh cho Đinh Liễn, Lê Đại Hành khắc   các Tràng Kinh Phật Đãnh Tôn Thắng Đà La Ni, Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Chùa Nhất Trụ năm 973, 979, 995 là di sản văn hóa không những của Phật giáo mà còn cho cả dân tộc Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ thư pháp Việt Nam, Phật giáo Việt Nam, nghệ thuật khắc bia đá non nước từ ngàn xưa cho đến ngày nay vẫn còn phát triển thịnh hành tại Ninh Bình và nhu cầu tu học, sinh hoạt tín ngưỡng của dân tộc Đại Việt lúc đó rất cao và sâu sắc.
 
Với hệ thống chùa chiền được thành lập và phát triển liên tục như: Phật Đà, Khai Quốc, Sóc Thiên Vương (chùa Non Nước), chùa Thanh Tước, Nhất Trụ, Bái Đính, chùa Ngần, chùa Long Động, Bích Động, Non Nước – Ninh Bình, chùa Bạch Long, chùa Tháp Báo Thiên, chùa Kho, chùa Am, chùa Bá Ngân, chùa Phong Phú v.v… Cở sở tu học hành đạo của Phật giáo thời đầu của những kỷ nguyên đất nước vừa được độc lập, tự chủ.
 
Dù về sau Ngài trú tại chùa Thanh Tước, nhưng cũng tới lui chùa Khai Quốc (Trấn Quốc) giáo hóa đồ chúng, đào tạo nhân tài cho Phật giáo, cụ thể là Đa Bảo Thiền sư, một nhân vật xuất sắc kế nghiệp Thầy Tổ, làm vẻ vang Đạo Pháp, là sau khi Lê Long Đỉnh băng hà (1009), Ngài cùng Quốc sư Vạn Hạnh trù tính kế hoạch đưa Lý Công Uẩn sinh năm 974lên ngôi hiệu là Lý Thái Tổ (1009 – 1028). Mở đầu thời đại nhà Lý hơn 200 năm (1010 – 1225).
 
Với triết lý hành động tích cực và trực nhận cũng như thể nhập Chân lý của dòng Thiền Vô Ngôn Thông, mà Quốc sư là đại diện tiêu biểu, dẫn đầu và qua sự hành động xuyên suốt của các thế hệ tiếp theo, mà cũng là tiền thân của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử sau nầy. Vì các Thiền sư cuối cùng của dòng Thiền Vô Ngôn Thông là Thầy, người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
 
Không dừng lại ở đấy, mà tinh thần phụng sự Đạo Pháp và Dân tộc của Quốc sư, vẫn còn nung nấu đến thời Nguyễn – Tây Sơn, như Toàn Nhật Quang Đài, trong Hứa Sử truyện nói: “Xưa nay việc nước việc nhà (chùa), cứu dân giúp nước sao mà chẳng nên. Luật rằng, phương tiện xảo quyền. Từ bi lợi vật, pháp truyền xưa nay”. Vì thế, Phật giáo Việt Nam khởi đi từ Quốc sư Khuông Việt, với dòng tư tưởng nhất quán của Phái Thiền Vô Ngôn Thông đầu tiên lập cước trên đất nước ta và gieo những hạt giống, chất men tích cực trong tinh thần phụng sự Đạo Pháp và Dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử hơn 1.000 năm qua và mãi mãi về sau.
 
Bằng tinh thần giải thoát, giác ngộ ngay cuộc đời giữa chúng sinh và xã hội nầy, không tìm đâu xa mà Ngài đã thể nghiệm và hành động hơn 30 năm phục vụ cho các triều đại. Vì vậy, mà biết bao hàng đệ tử Phật đã hy sinh, dấn thân vì Đạo Pháp và Dân tộc, hết lòng hộ quốc an dân, làm tốt đời đẹp đạo qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử đất nước, cũng như Đạo pháp và Dân tộc, với tinh thần lạc quan, tự tin, tự chủ, tự cường, bao dung và rộng mở của Đạo Phật là chất liệu cho sự sống còn và pát huy tính dân tộc đoàn kết, hòa hợp và cùng phát triển. Như Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Phật pháp tại thế gian, không rời thế gian mà có sự giác ngộ. Rời thế gian mà cầu sự giác ngộ như tìm lông rùa sừng thỏ, không bao giờ có được”.  
 
Với tinh thần nhập thế dung thông cao độ và tự tại giải thoát của Quốc sư Khuông Việt, là tấm gương sáng của Phật giáo Việt Nam, cho những người con Phật, Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam vì chúng sinh, vì sự phát triển của đất nước và dân tộc mà tích cực dấn thân phục vụ, làm cho Đạo pháp trường tồn, nước nhà độc lập, tự chủ, hòa bình, thịnh vượng và phát triển, hội nhập cộng đồng thế giới. Quả thật: Hoa đời, hoa đạo đua nhau nở, mãi mãi ngàn sau vẫn ngát hương.
 
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn
Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký HĐTS GHPGVN
Tài iệu tham khảo:
      Việt Nam Phật giáo Sử Luận (Nguyễn Lang)
      Lược sử Phật giáo Việt Nam (Lê Mạnh Thát)
      Thiền Uyển Tập Anh (Lê Mạnh Thát)
      Thiền sư Việt Nam (HT. Thích Thanh Từ)
      Phật giáo Thời Lý (Viện Nghiên cứu PHVN)
      Hội thảo Phật giáo thời Đinh, Tiền Lê (Viện Nghiên cứu Tôn giáo)
      Tạp chí Phật học Khuông Việt (Học viện PGVN tại Hà Nội).